Ý
tưởng về Thánh Lễ:
Từ điển Công Giáo đã tóm gọn ý tưởng các số 1364 – 1376 của Giáo Lý Hội Thánh
Công Giáo để đưa ra định nghĩa về Thánh lễ như sau: “Thánh lễ là việc Hội thánh tưởng niệm lại sự chết và sự sống lại của
Chúa Giê-su. Hiện tại hóa Hy Tế Thập Giá của Người.”[1] Khi
cử hành Hy tế của Đức Ki-tô nơi Thánh lễ, các tín hữu được lắng nghe Lời Chúa
và được Mình Máu Thánh Chúa nuôi dưỡng. Chính nhờ được nuôi dưỡng bằng Lời và
Thánh Thể mà tín hữu đủ sức vượt qua muôn ngàn khó khăn, thử thử thách trong
hành trình tiến về Quê Trời.
Ý
tưởng về Năm Đời Sống Thánh Hiến: Đức Thánh Cha Phan-xi-cô mở năm
"Đời Sống Thánh Hiến", được bắt đầu bằng giờ canh thức tối 29/11/2014
và kết thúc bằng cử hành Thánh lễ "ngày Đời Sống Thánh Hiến" tại đền
thờ Thánh Phê-rô sáng 02/02/2016. Năm Đời Sống Thánh Hiến ắt hẳn có vai
trò rất đặc biệt trong đời sống của những ai sống đời thánh hiến.
Từ hai ý tưởng trên, xin được gán
ghép lại để trình bày đề tài: “Vai Trò Của Thánh Lễ Trong Đời Sống Tu
Trì” với các mục sau:
I.
Đời sống tu trì
1.Đời tu
1.1.Nguồn gốc
1.2.Nền tảng
1.3.Mục đích
2.Vai trò của tu
sĩ trong thế giới hôm nay
1.1.Dấu chỉ
1.2.Chứng tá
II.
Vai trò của
Thánh lễ trong đời sống tu trì
1.Thánh lễ - khơi
nguồn đời sống tu trì
1.1.Đức Ki-tô tự
nguyện hiến thân cho nhân loại
1.2.Tu sĩ được mời gọi
hiến thân cho Thiên Chúa và tha nhân
2.Thánh lễ - đích
đến của đời sống tu trì
2.1.Tiến vào Nhà
Chúa
2.2.Lắng nghe và
tuân giữ Lời Chúa
2.3.Kết hiệp với Đức
Ki-tô nới Bí Tích Thánh Thể
3.Thánh lễ - sống mầu
nhiệm Nước Trời ngay thực tại trần thế
3.1.Chiều kích Khiết
tịnh của Thánh lễ
3.2.Chiều kích Khó
nghèo của Thánh lễ
3.3.Chiều kích Tuân
phục của Thánh lễ
I.
ĐỜI SỐNG TU TRÌ
1.
Đời tu
1.1.
Nguồn gốc
Đời sống tu trì có nguồn gốc từ thời xa xưa,
và khó có thể xác định được hình thức tu trì đã chính thức bắt đầu khi nào và
tu sĩ đầu tiên là ai. Tuy nhiên, có thể nói rằng đời tu có nguồn gốc từ trong
Tin Mừng. Tin Mừng truyền đạt giáo huấn và chính đời sống của Đức Giê-su. Các lời
khuyên Phúc Âm nối kết đời tu với Đức Giê-su bằng cách cho phép các tu sĩ thông
dự vào sự khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục của Đức Giê-su. Nhưng trung tâm điểm
của Tin Mừng là chính Đức Giê-su. Như vậy có thể nói đời tu bắt nguồn từ Đức
Giê-su, mặc dầu không thể nói Đức Giê-su lập đời tu cách trực tiếp và minh
nhiên.[2]
Thật vậy, “ngay từ thời kỳ sơ
khai của Giáo hội, đã có những người nam cũng như nữ, muốn tự nguyện bước theo
Chúa Ki-tô với tinh thần tự do thanh thoát, trung thành noi theo mẫu gương đời
sống của Chúa qua việc thực hành các lời khuyên Phúc âm và tận hiến cuộc đời
cho Thiên Chúa…”[3] Ở điểm này, trong Hiến Chế
Lumen Gentium 43 đã nói rõ những lời khuyên Phúc Âm về đức khiết tịnh để tận hiến
cho Thiên Chúa, về đức khó nghèo và vâng phục chính là một tặng phẩm của Thiên
Chúa mà Giáo hội đã lãnh nhận từ Đức Ki-tô và luôn gìn giữ nhờ ơn Người[4].
Chính vì thế, đời tu trong Ki-tô giáo ngay từ khởi đầu được đặt trên bình diện
siêu nhiên như một ân sủng được ban cho các tín hữu.[5]
1.2.
Nền tảng của đời
tu
Nền tảng của đời tu chính là Phúc
Âm sống, nghĩa là việc bắt chước gương sống của Đức Ki-tô, họa lại cuộc sống của
Người và mang ra thực hành những gì Người đã giảng dạy, cách riêng trong bài giảng
trên núi. Đời tu là một ân huệ của Chúa Thánh Thần ban “cho” Hội thánh, “vì” Hội
thánh.”[6]
Thật vậy, nền tảng của đời tu trước
hết là ước muốn sống trọn vẹn và triệt để chương trình Phúc Âm của tu sĩ. Tu sĩ
quy chiếu mọi khía cạnh của đời sống vào đó, coi đó như mục tiêu hàng đầu của đời
mình. Cái ước muốn đó được bộc lộ bằng lời khấn công khai được Giáo hội chuẩn
nhận một cách hợp pháp.[7]
Kế đến, nền tảng của đời tu còn
thể hiện ở việc thánh hiến. Sự thánh hiến bắt nguồn từ sáng kiến tình yêu của
Thiên Chúa và được con người đón nhận trong Giao ước tình yêu. Sự thánh hiến
trong đời tu chính là sự thánh hiến của phép Thánh tẩy với một cam kết đặc biệt
sống trọn cho Thiên Chúa và theo sát Đức Ki-tô hơn.[8] Tất cả mọi ki-tô hữu, qua Phép Rửa, đều quyết tâm xa lánh
tội lỗi để sống với Ðức Ki-tô. Mọi người được mời gọi vào cuộc sống thánh
thiện, “trở nên hoàn hảo như Cha trên
trời là Ðấng hoàn hảo”[9].
Nhưng Thiên Chúa cũng kêu gọi một số người thể hiện quyết tâm này ở một mức độ
trọn vẹn hơn bằng cách từ bỏ mọi sự để theo Ðức Ki-tô. Ðể đáp lại ơn gọi này và
để dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, những ki-tô hữu nam, nữ này đã chấp nhận
một cách tự do một cuộc sống đặc biệt, được Giáo Hội công nhận. [10] Tu sĩ là những người "đi theo Chúa", chấp nhận một
đời sống chung trong khó nghèo, độc thân, và vâng lời vì mến Chúa. Nói như
thánh Tô-ma: “Tu sĩ là những người hoàn toàn phó mình cho việc phụng thờ Thiên
Chúa như dâng lên Thiên Chúa một của lễ toàn thiêu.”[11]
Như
vậy, nền tảng của đời tu bao gồm:
ü Sống trọn vẹn và
triệt để Tin Mừng
ü Sự Thánh hiến
cho Thiên Chúa
2.
Mục đích của đời
tu[12]
Trước Công Đồng Vat.II, đời tu nhắm
đến hai mục đích:
ü Thánh hóa các phần
tử (cứu rỗi linh hồn mình)
ü Làm những công
việc chuyên biệt của hội Dòng như: giảng dạy, chăm sóc bệnh nhân …Mục đích sau
cùng là mở mang Nước Chúa (cứu rỗi các linh hồn kẻ khác)
Sau Công Đồng
Vat.II, đời tu nhắm đến hai mục đích khác
ü Tìm kiếm đức ái
trọn hảo
ü Chứng tá về sự
thánh thiện
Dù là trước hay sau Công Đồng thì
mục đích đời tu vẫn là một. Sự thánh hóa bản thân và sự cứu rỗi anh em, nhưng
chỉ có sự khác biệt trong cách diễn tả. Nếu trước kia việc thánh hóa bản thân
nhấn mạnh dưới khía cạnh “tìm kiếm sự trọn lành”, thì sau Công Đồng Vat.II sự
thánh hóa được trình bày như việc tìm “kiếm đức ái trọn hảo”. Mà đức ái trọn hảo
cốt ở tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Yêu mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí
khôn, hết sức lực, trên hết mọi sự và thương yêu tha nhân như chính mình.
Đời
sống tu trì là đời sống của những người được Chúa mời gọi cách đặc biệt, để
bước chân theo Đức Ki-tô, theo sát Tin Mừng, qua ba lời khấn: khó nghèo, khiết
tịnh và vâng phục. Bộ Giáo Luật điều 607 có nói: “Ðời sống tu trì, xét vì là sự hiến dâng hoàn toàn bản thân, biểu lộ
trong Giáo Hội cuộc kết hôn huyền diệu mà Thiên Chúa đã thiết lập như dấu chỉ của
đời sau. Như vậy tu sĩ hoàn tất sự trao hiến toàn vẹn tựa như hy lễ dâng cho
Thiên Chúa, nhờ đó tất cả cuộc đời của họ trở nên việc liên lỉ thờ phượng Thiên
Chúa trong đức ái.” [13]
Qua việc giữ các lời khuyên Phúc Âm, tu sĩ không chỉ hài lòng nhận lấy Đức
Ki-tô làm ý nghĩa cho đời mình, mà còn tìm cách tái lập trong chính mình chừng
nào có thể nếp sống mà Con Thiên Chúa đã nhận khi Người xuống thế. Chọn đức khiết
tịnh, tu sĩ chọn cho mình tình yêu của Đức Ki-tô và minh chứng với thế giới
chính Người là con duy nhất, là một với Chúa Cha. Khi bắt chước đức khó nghèo của
Đức Ki-tô, tu sĩ nhận biết Đức Ki-tô như Người Con lãnh nhận mọi sự từ Chúa Cha
vì tình yêu. Và khi tự nguyên tuyên khấn tuân phục, tu sĩ nhận biết Đức Ki-tô
đáng được yêu và đáng yêu vô cùng vì Người chỉ vui thích thi hành ý muốn Chúa
Cha, Đấng mà Người kết hợp mật thiết và hoàn toàn lệ thuộc vào.[14]
Tóm gọn về đời sống tu trì như
sau:
· Về nguồn gốc: đời tu có nguồn gốc từ trong Tin Mừng
· Về nền tảng:
ü Sống trọn vẹn và
triệt để Tin Mừng
ü Sự Thánh hiến
cho Thiên Chúa
· Về mục đích:
ü Tìm kiếm đức ái
trọn hảo
ü Chứng tá về sự
thánh thiện
3.
Vai trò của tu
sĩ trong thế giới hôm nay
Vai trò của tu sĩ trong thế giới
hôm nay là gì? Quả là một câu hỏi rất hóc búa đặt ra cho những ai đang bước
theo Đức Giê-su trong đời sống thánh hiến.
Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, số
44 đã nhận định: Bản chất thần học của đời tu: dâng mình cho Chúa để phụng sự
Ngài và đồng thời phục vụ sứ mệnh của Giáo hội. Các tu sĩ đóng vai trò “dấu chỉ
và chứng tá” trong Giáo hội: họ làm sống lại lối sống tại thế của Đức Ki-tô, họ
nêu cao giá trị siêu việt của nước Chúa, họ bày tỏ quyền năng của Thánh Thần
tác động trong Giáo hội, họ thúc đẩy mọi người tiến về đường trọn lành, cũng
như nhắc nhở toàn thể dân Chúa hướng về cứu cánh mai hậu của mình.”[15]
Thế nên có thể nói vai trò của tu
sĩ trong thế giới hôm nay bao hàm ở hai khía cạnh.
3.1.
Trước hết, đời sống
tu sĩ phải là dấu chỉ Nước trời.
Đức Ki-tô khi còn ở thế gian đã
nói với các tông đồ: “Ở điểm này, mọi người
sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau”[16]. Đời sống bác ái
yêu thương như lời Đức Ki-tô dạy là dấu chỉ rõ nét nhất Nước Trời. Đời sống tu
trì phải là đời sống triệt để hơn cả lời mời gọi sống yêu thương của Đức Ki-tô.
“Đức ái đối với Thiên Chúa và tha nhân là
dấu chỉ người môn đệ chân chính của Chúa Ki-tô.”[17]
Hơn nữa, tu sĩ còn trở nên dấu chỉ
Nước Trời qua việc không ngừng khám phá hạt men Nước Trời đang ẩn khuất trong
cuộc sống hôm nay, ngay trong chính cộng đoàn tu. Qua đó, tu sĩ biết trân trọng
và tin tưởng vào sức mạnh của men Nước Trời hơn tất cả. Hạt men Nước Trời trong cuộc sống thật bé bỏng, bé bỏng như
hạt cải, nhưng tu sĩ lại nhận ra được tất sức mạnh cứu độ của Hạt Men Nước
Trời.
Cuối cùng, tu sĩ cần góp phần vun trồng, chăm bón, và nếu
cần, phải dám hy sinh chính bản thân để làm chứng cho sự hiện diện của Nước
Trời trong xã hội hôm nay.
[18]
3.2.
Kế đến, tu sĩ phải
là chứng tá cho Nước Trời.
“Việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm mang lại và phải mang lại cho thế
giới một chứng từ và một mẫu gương rạng ngời về sự thánh thiện của Giáo hội.”[19] Giáo hội là hiện thân của Nước Trời. Do
đó, đời sống tu trì không chỉ làm chứng cho Giáo hội nhưng còn làm chứng cho những
thực tại Nước Trời. Đời tu đặc biệt làm chứng rằng thế giới này không được biến
đổi nếu không có tinh thần các mối phúc.[20] Thật vậy, Đức Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô
II đã kêu gọi tu sĩ làm chứng về giá trị Nước Trời không chỉ trong Giáo hội mà
còn cho toàn thế giới. Trong Tông huấn Vita Conserata, Đức Thánh Cha đã nói: “Anh chị em biết rằng mình đã khởi sự một con
đường hoán cải liên tục, dâng hiến trọn vẹn chính mình cho tình yêu Thiên Chúa
và tha nhân, để làm chứng bằng cách thức ngày càng xinh đẹp hơn về ân sủng vốn
biến dạng cuộc sống Ki-tô của anh chị em. Thế giới và Giáo hội tìm những chứng
nhân đích thực của Chúa Ki-tô. Và Đời sống thánh hiến là một tặng phẩm của
Thiên Chúa ban cho “điều cần thiết duy nhất”[21] được đặt trước mắt tất
cả mọi người. Trong Hội thánh và trong thế giới, đời thánh hiến có một sứ mệnh
đặc biệt là làm chứng cho Chúa Ki-tô bằng đời sống, bằng công việc và bằng lời
nói.”[22]
Ngoài ra, trong Tông thư gửi tất
cả các người tận hiến nhân dịp Năm Đời Sống Thánh Hiến, Đức Thánh Cha
Phan-xi-cô đã bày tỏ những ước mong của ngài trong Năm Đời Sống Thánh Hiến. Những
ước mong này, thiết nghĩ cũng là vai trò của tu sĩ trong thế giới ngày nay mà Đức
Thánh Cha muốn nhấn mạnh.
ü Tu sĩ làm chứng
cho Nước Trời qua việc “ở đâu có tu sĩ, ở
đó có niềm vui.”
ü Anh chị em sẽ
đánh thức thế giới. Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến tính ngôn sứ của đời tu: “Những ngôn sứ chứng tá cho Đức Giê-su đã sống
ở thế giới này ... Một tu sĩ không bao giờ được khước từ tính ngôn sứ.”
ü Các tu sĩ và những người tận hiến được mời gọi trở
nên những “chuyên viên hiệp thông”.
ü Đời tu phải loan
báo Tin Mừng: “Tôi cũng mong đợi nơi anh
chị em điều mà tôi yêu cầu tất cả mọi thành phần của Giáo hội: ra khỏi chính
mình và đi về những vùng ngoại ô của cuộc đời: “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ”,
đó là những lời cuối cùng của Chúa Giê-su ngỏ với các môn đệ và hôm nay vẫn còn
ngỏ cho tất cả mỗi người chúng ta.”[23]
ü “Tôi mong đợi rằng mỗi hình thức đời sống thánh hiến
hãy tự vấn về điều mà Thiên Chúa và nhân loại đang đòi hỏi.”
Tóm lại, vai trò
của đời tu trong thế giời là Dấu chỉ và Chứng tá cho Nước Trời.
II.
VAI TRÒ CỦA PHỤNG
VỤ THÁNH LỄ TRONG ĐỜI SỐNG TU TRÌ
1.Thánh
lễ - khơi nguồn đời sống tu trì
1.1.
Đức Ki-tô tự
nguyện hiến thân cho nhân loại
Trước hết, Đức Giê-su là người đã
được Chúa Cha thánh hiến và Người đến thế gian để thực hiện ý định của Thiên
Chúa qua lời khẳng định: “Tôi là người
Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian”[24]. Thế nên, sự
thánh hiến của Đức Ki-tô là nguồn gốc cho mọi cuộc thánh hiến. Và từ cuộc thánh
hiến này, Người đã tự nguyện hiến thân
cho nhân loại qua biến cố nhập thể: “Đức
Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị
ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân
nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.”[25]
Không dừng lại ở việc trút bỏ
vinh quang của địa vị Thiên Chúa, Đức Ki-tô còn tự nguyện hiến thân để cứu độ
con người qua cuộc khổ hình và tử nạn: “Người
phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ”[26]. Tuy nhiên, đêm trước khi bước vào cuộc tử nạn,
Đức Ki-tô đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể hầu hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa
và nhân loại: “Không ai có tình thương lớn
hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”[27]. Qua đó, Đức
Giê-su sẽ ở lại trần gian mọi ngày cho đến tận thế: “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy.”[28]
Như vậy, có thể nói rằng Đức
Giê-su lại là mẫu gương và đỉnh cao của sự thánh hiến qua việc:
· Người được Thiên
Chúa thánh hiến
· Người tự nguyện
trút bỏ vinh quang Thiên Chúa, mặc lấy thân nô lệ
· Người tự nguyện
hiến thân qua cái chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại
· Ngày ngày, Đức
Ki-tô còn hiến thân cho nhân loại nơi Bí tích Thánh Thể.
1.2.
Tu sĩ được mời gọi
hiến thân cho Thiên Chúa và tha nhân
Xuất phát từ việc Đức Ki-tô đã tự
nguyện hiến thân cho Thiên Chúa và nhân loại, tu sĩ được mời gọi bước theo Người
cách triệt để qua đời sống thánh hiến. Thật vậy, đời sống tu trì phải được ăn rễ
sâu trong gương mẫu và giáo huấn của Đức Ki-tô, là một quà tặng của Thiên Chúa
Cha trao ban cho Giáo Hội qua Chúa Thánh Thần. Nhờ việc khấn giữ các lời khuyên
Phúc Âm, những đức tính đặc biệt của Đức Ki-tô khiết tịnh, khó nghèo, vâng phục
sẽ trở nên hữu hình ngay giữa thế gian một cách mẫu mực và truyền kì, khiến mọi
tín hữu được mời gọi hướng nhìn về Nước Thiên Chúa, mầu nhiệm đã có sức tác động
trong dòng lịch sử, mà còn chờ đạt đến chiều kích sung mãn trên Nước Trời. [29]
Qua cuộc tử nạn và phục sinh, Đức
Ki-tô đã làm nổi bật giá trị của việc tuân giữ khiết tịnh, khó nghèo, tuân phục.
Ngày nay, mỗi khi Giáo Hội cử hành Thánh lễ là lúc hy tế của Đức Ki-tô xưa kia
được tái hiện. Chính nơi Thánh lễ này, đã khơi nguồn cho ơn gọi tu trì. Chỉ những
ai được Thiên Chúa trọn gọi cách đặc biệt thì mới có thể sống đời dâng hiến với
ba lời khấn khiết tịnh, khó nghèo, tuân phục như Đức Ki-tô là Thầy đã dẫn đường.
2.Thánh
lễ - đích đến của đời sống tu trì
2.1.
Tiến vào Nhà
Chúa
· Chiều kích cộng đoàn của Thánh lễ
Bước vào Thánh lễ, chủ tế sẽ mời
gọi cộng đoàn sau khi dân chúng đã tụ họp, và đang khi vị tư tế và các người
giúp lễ tiến vào thì bắt đầu hát ca nhập lễ. Bài ca này có mục đích mở đầu việc
cử hành Thánh Lễ, giúp giáo dân thêm hiệp nhất, hướng tâm hồn họ vào mầu nhiệm
mùa phụng vụ hay ngày lễ và đi kèm với cuộc rước của vị chủ tế và các người
giúp lễ.[30]
Trước hết, phụng vụ Thánh Lễ là
trình thuật của việc Thiên Chúa tụ họp dân chúng đủ mọi sắc dân sắc tộc. Cộng
đoàn ki-tô hữu là cộng đoàn mà ở đó “không
còn chuyện phân biệt Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà,
nhưng tất cả anh chị em là một trong Đức Ki-tô”[31]. Cộng đoàn phụng tự này không phải là
những người xa lạ, không quen biết nhưng là một cộng đoàn phụng tự với tư cách
là con cái Thiên Chúa, là dân thánh, là dân riêng của Chúa[32],
là những anh chị em trong gia đình của Thiên Chúa, là những người được cứu chuộc
đến đây để cảm nghiệm Bàn Tiệc Cánh Chung.[33]
Việc quy tụ của các ki-tô hữu làm
nên chiều kích cộng đoàn của Thánh lễ. Chiều kích cộng đoàn này không chỉ là một
khía cạnh của sự thờ phượng, nhưng nó còn là nét đặc thù của Ki-tô giáo.[34]
Việc quy tu ở một nơi nào đó để cử hành phụng vụ của các ki-tô hữu là một truyền
thống của Giáo hội ngay từ những ngày đầu tiên bước ra khỏi môi trường Do thái
Giáo. Thật vậy, Đức Giê-su đã nói: “ở đâu
có hai ba người tụ họp lại nhân danh Thầy thì Thầy sẽ ở đó giữa họ”[35],
thế nên chiều kích cộng đoàn của Thánh lễ phải là chiều kích được ưu tiên hơn cả.
Hơn nữa, hình ảnh một cộng đoàn Dân Chúa được triệu tập trước khi cử hành Thánh
lễ còn như một lời nhắc nhở mạnh mẽ rằng Ki-tô hữu được mời gọi để tiếp nối
công cuộc mà Đức Ki-tô đã từng hiến cuộc đời và mạng sống mình để xây dựng một
vương quốc. Vương quốc đó chính là ý nghĩa của hai chữ Hội Thánh.[36]
· Lời mời gọi đầu Thánh lễ của vị chủ tế cần phải được
thực hiện cách tích cực hơn với những người sống đời tu trì.
Tự bản chất ơn gọi của tất cả ki-tô
hữu là lời đáp trả triệt để trước lời mời gọi của Đức Ki-tô, khi được thánh hiến
trong bí tích Thánh Tẩy: “trước hết anh
em hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người”[37]. Tuy nhiên, xét
vì được mời gọi cách đặc biệt, tu sĩ phải sống chiều kích cộng đoàn của Thánh Lễ
cách triệt để hơn cả. Thế nên, trong vai trò là thành phần ưu tuyển của Dân
Thiên Chúa, tu sĩ phải sống triệt để chiều kích cộng đoàn của Thánh lễ không chỉ
bằng cách tích cực tham dự vào đoàn Dân Thiên Chúa khi cử hành Thánh lễ mà còn
là thừa tác viên, cộng tác với vị tư tế trong việc triệu tập và quy tụ mọi người
hiệp nhất, chuẩn bị tâm hồn để cử hành Thánh lễ cho xứng đáng.
Ngoài ra, với chiều kích cộng
đoàn của Thánh lễ, tu sĩ phải là người có trách nhiệm liên đới xây dựng thế giới
hòa giải và bình an. Nhiều cộng đoàn tu đã thực hiện được điều này qua việc
không ngừng nổ lực trong đặc sủng riêng của tu hội mình mà không ngừng chữa
lành những vết thương thể xác, tâm hồn của các bệnh nhân, bắc những nhịp cầu và
trở thành sứ giả hòa bình. Người sống đời tu trì được mời gọi cần có nhận thức
sâu sắc hơn về nhiều cách sống. Những cộng đoàn tu trước hết phải là những cộng
đoàn biết tự chăm lo cho nhu cầu của mỗi thành viên. Sau là cộng tác với Giáo hội
địa phương, cộng tác với linh mục trong việc thăm viếng bệnh nhân, kẻ liệt,
chào đón những thành viên mới, giải gỡ cho người bối rối, hướng dẫn học hỏi
Kinh thánh, giáo lý, trợ giúp người nghèo…làm bất cứ điều gì nhu cầu dân đòi hỏi
[38]
miễn là giữ được căn tính và đặc sủng riêng của tu hội mình.
2.2.
Lắng nghe và
tuân giữ Lời Chúa
· Lắng nghe Lời Chúa
Một cộng đoàn được tụ họp lại cử
hành Thánh lễ trước hết là để lắng nghe Lời Chúa. Lời Chúa được chứa đựng trong
Kinh Thánh. Đó là đức tin đã được bắt rễ từ hàng ngàn năm trước,[39]
và đến thời viên mãn, Đức Ki-tô đã kiện toàn, ứng nghiệm những lời đã được tiên
báo đó. Lời Chúa sẽ trở nên sống động
khi được cử hành trong Thánh lễ. “Qua lời
Thánh Kinh đọc trong Hội thánh, chính Thiên Chúa nói với dân Ngài và Đức Ki-tô
hiện diện trong lời của mình, loan báo Tin Mừng.”[40] Thật vậy, Thiên
Chúa không phải là một Đấng ẩn mình, nín lặng. Kinh thánh cho thấy, Ngài luôn
tìm cách gặp gỡ và nói với các loài thọ tạo của Ngài.[41] “Thủa xưa, nhiều lần nhiều cách Thiên Chúa
đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này, Thiên
Chúa đã phán với chúng ta qua một Người Con…”[42] Việc công bố Lời
Chúa trong Thánh lễ chính là lúc Thiên Chúa nói với dân Ngài một cách rõ ràng
nhất. Trong Thánh lễ, Thiên Chúa không dùng ngôn từ mập mờ nhưng nói tất cả kế
hoạch của Ngài qua các bài đọc, nhất là bài Tin Mừng. Chính vì thế, cộng đoàn
đang quy tụ trong Thánh lễ được gặp gỡ chính Đức Ki-tô một cách sống động trong
Lời của Người. Thật vậy, “qua các bài đọc,
được bài diễn giảng giải thích, Thiên Chúa nói với dân Ngài, Ngài mặc khải mầu
nhiệm cứu chuộc và ơn cứu độ, đồng thời cung cấp lương thực thiêng liêng. Chính
Đức Ki-tô dùng Lời của mình mà hiện diện giữa các tín hữu.”[43] Có thể nói Lời
Chúa được đọc trong Thánh lễ là những câu chuyện.[44] Mỗi
khi cộng đoàn được tụ họp lại trong Thánh lễ, thì những câu chuyện Kinh thánh
được kể lại như một dấu chứng cho sự can thiệp của Thiên Chúa vào trong dòng lịch
sử nhân loại.
Không dừng lại ở việc kể chuyện,
Kinh Thánh được đọc trọng Phụng vụ Thánh lễ còn là chính Lời Chúa đang nói cách
sống động qua các thừa tác viên. Đức Giê-su cũng khẳng định vai trò quan trọng
của Lời: “người ta sống không nguyên bởi
bánh nhưng còn do mọi lời do miệng Thiên Chúa
phán ra”[45].
Hơn nữa, nhờ ba bài đọc được chỉ định cho lễ trọng và Chúa nhật (một bài Cựu Ước,
một bài Tân Ước và một bài Tin Mừng) mà dân Chúa được giáo dục về tính cách
liên tục của chương trình cứu độ, theo sự xếp đặt lạ lùng của Thiên Chúa.[46]
Vì thế, phải cử hành Phụng vụ Lời Chúa như thế nào tạo thuận lợi cho việc suy gẫm,
tuyệt đối tránh mọi hình thức vội vã, ngăn trở việc hồi tâm. Nên có những giây
phút thinh lặng ngắn tùy theo cộng đoàn tụ họp, để nhờ sự trợ giúp của Chúa
Thánh Thần, Lời Chúa được tiếp nhận trong tâm hồn và lời đáp trả qua kinh nguyện
được chuẩn bị.[47]
· Tuân giữ Lời Chúa
Trước hết, việc rao giảng Lời
Chúa là hồng ân và trách nhiệm của linh mục bởi “Dân Chúa được quy tụ trước tiên là nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống, Lời
này phải được đặc biệt tìm thấy nơi miệng lưỡi các linh mục…Do đó các linh mục
có nhiệm vu loan báo cho mọi người Tin Mừng của Thiên Chúa.”[48] Khi giảng lễ, các
linh mục phải căn cứ vào các bản văn phụng vụ, nhất là các bài đọc sách thánh,
nghĩa là phải dựa vào uy thế của Lời Chúa, làm sáng tỏ Lời Chúa và áp dụng Lời
Chúa vào những hoàn cảnh riêng biệt, tức là “hiện tại hóa” những lời vừa công bố
và trình bày cho thấy đó là vẫn là Lời Chúa nói với con người ngày nay.[49]
Hiểu được vai trò quan trọng
trong việc loan báo Lời Chúa của các linh mục, các ki-tô hữu khi tham dự Thánh
lễ không chỉ dừng lại ở việc lắng nghe, nhưng còn phải tuân giữ Lời Chúa qua
bài giảng của linh mục. Bởi lẽ “bài giảng
là thành phần của phụng vụ và rất được khuyến khích, vì cần thiết để nuôi dưỡng
đời sống ki-tô hữu.” [50]
Thật vậy, bài giảng thật sự cần thiết với ki-tô hữu vì “làm sao tôi có thể hiểu nếu không có ai dẫn giải cho tôi”[51]. Qua bài giảng của
vị mục tử, Lời Chúa được ăn sâu vào đời sống cụ thể của mỗi người, thiết lập một
mối dây liên hệ giữa Lời Chúa vừa mới được công bố với những biến cố cụ thể
trong đời sống của họ. Bài giảng cũng khơi lên niềm hy vọng và truyền cảm hứng
cho người nghe để họ khao khát sống theo đường lối của Chúa, và sống trung
thành với lối sống Ki-tô giáo hay tiêu chuẩn sống của ki-tô hữu, dựa trên căn bản
là nội dung của bản văn Kinh Thánh.[52]
· Tu sĩ cần có thái độ tích cực hơn trong việc lắng
nghe và tuân giữ Lời Chúa
Khởi đi từ thành phần dân Chúa
trong Thánh lễ, tu sĩ phải là những ngôn sứ đích thực trong việc loan báo Lời
Chúa. Lời Chúa đã được cử hành trong nghi thức phụng vụ, tu sĩ phải lắng nghe
và hấp thụ cách tích cực, không ngừng đào sâu qua việc suy gẫm. Vì thế mới có
thể mang lại những hiệu năng góp phần tích cực cho đời sống của tu sĩ và sứ vụ
ngôn sứ.
2.3.
Kết hiệp với Đức
Ki-tô nới Bí Tích Thánh Thể
Theo tinh thần canh tân Phụng vụ
của Công đồng Va-ti-ca-nô II, toàn bộ Thánh lễ là sự chuẩn bị cho việc rước lễ.
Hay nói đúng hơn, toàn bộ Thánh lễ là hiệp lễ. Từ việc sám hối lúc đầu Thánh lễ,
nghe Lời Chúa qua các bài đọc, lời nguyện tín hữu, thông dự vào Kinh Tạ Ơn, đọc
Kinh Lạy Cha…tất cả đều nhằm khai triển hành động của Chúa Ki-tô, Đấng làm cho
chúng ta trở nên thân thể của Người.[53] Quy
chế Sách Lễ Rô-ma cũng quy định: “Thánh lễ
là Bữa Tiệc Vượt Qua, vì thế theo lệnh Chúa, các tín hữu đã được chuẩn bị như
nghi thức đã ấn định, nên rước Mình Máu Thánh Chúa như của ăn thiêng liêng.”[54] Thật vậy, hiệp lễ là thành phần cấu tạo của
phụng vụ Thánh Thể. Bánh và rượu sau khi được truyền phép trở nên Mình và Máu
Chúa Ki-tô. Mình và Máu này được ban cho Ki-tô hữu như quà tặng cao quý nhất của
Thiên Chúa. Hiện nay, phần lớn giáo dân khi tham dự Thánh lễ đều rước lễ. Tuy
nhiên, việc hiệp lễ này vẫn chưa đưa Ki-tô hữu đạt đến thực tại cánh chung. Hiệp
lễ vẫn tiếp tục bị hiểu sai, vẫn bị tách rời khỏi các phần phụng vụ và thường bị
giới hạn bởi lòng sùng kính bình dân. Thực chất có lẽ là nhiều người vẫn còn
cho cốt lõi của hiệp lễ chỉ là một sự nên một giữa Chúa Giê-su và tôi. Vì vậy,
sau khi rước lễ nhiều người đã đóng cửa lòng, tách biệt với cộng đoàn để chỉ cầu nguyện hay xin khấn cho
bản thân mình. [55]
Tuy nhiên, Bí Tích Thánh Thể
không chỉ là Bí tích nối kết người lãnh nhận với Chúa Giê-su, mà trong Chúa
Giê-su Thánh Thể tất cả mọi người đều nên một trong một thân thể duy nhất. Nếu
như qua Bí tích Rửa Tội, ki-tô hữu được tháp nhập vào Giáo Hội và thông
phần vào việc cử hành Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô, thì khi cử hành Thánh lễ,
mỗi ki-tô hữu trở nên chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô, như lời cầu xin trong
Kinh Nguyện Thánh Thể III : “Và khi chúng
con được Mình và Máu Con Cha bổ dưỡng, được đầy tràn Thánh Thần của Người, xin
cho chúng con trở nên một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô”.[56]
Để có thể bước theo Đức
Ki-tô cách triệt để, tu sĩ phải có Chúa luôn đồng hành. Thế nên, mỗi khi cử
hành Thánh lễ, tu sĩ càng phải ý thức hơn bao giờ hết giá trị của sự hiệp lễ.
Nơi bí tích Thánh Thể, Đức Ki-tô hiện diện đích thực và trọn vẹn. Sự hiện diện
này là sự hiện diện cách bản thể.[57]
Qua việc siêng năng rước lễ thường xuyên sẽ giúp tu sĩ làm tăng triển sự hiệp
thông của với Ðức Ki-tô và với Hội thánh Người. Ngoài ra hiệu quả của hiệp lễ
còn là bảo toàn và canh tân đời sống ân sủng đã nhận được khi lãnh Bí tích Rửa
tội và Bí tích Thêm sức, giúp tăng triển tình yêu đối với tha nhân. Từ đó mới
có thể trở nên những chứng nhân cho tình yêu và lòng thương xót của Chúa.
3.Thánh
lễ - sống thực tại nước trời ngay thực tại trần thế
3.1.
Chiều kích Khiết
tịnh của Thánh lễ
Chiều kích khiết tịnh của Thánh lễ
trước hết được rút từ chiều kích cộng đoàn của Thánh lễ. Thực vậy, Thánh lễ là
sự quy tụ của được chính Thiên Chúa mời gọi đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần
gian, phúc cho ai đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa.”[58] Lời mời gọi đó của linh mục chủ sự trước
lúc rước lễ và trao Mình Thánh cho giáo dân, nhắc nhớ cho mọi người tham dự niềm vui, hạnh phúc được Chúa mời đến
dự tiệc. Khi nghe những lời
đó, ki-tô hữu liên tưởng đến dụ
ngôn của Chúa Giê-su về Nước
Trời[59] như bữa tiệc mà Vua Cha tổ chức cho
Hoàng Tử và mời gọi mọi người đến dự tiệc[60].
Và trong bữa tiệc đó tất cả mọi người đều được mời gọi, bất kể là nam hay nữ,
nô lệ hay tự do, Do thái hay Hy lạp[61],
để cùng nên một trong Nhiệm Thể Chúa Ki-tô. Bởi “khi ta cùng bẻ bánh, đó chẳng phải là dự
phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta
chia sẻ cùng một bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể.”[62]
Như
vậy, chiều kích cộng đoàn của Thánh lễ cũng làm nổi bật chiều kích khiết tịnh của
Thánh lễ. Thể hiện ở chỗ mọi người được mời gọi đến với Thiên Chúa không phân biệt
nam hay nữ, già hay trẻ, hay bất kì thuộc vùng miền dân tộc nào để được nuôi dưỡng
bằng Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa. Qua việc cử hành Thánh lễ, ki-tô hữu được
gợi nhớ về gương sống khiết tịnh của Đức Ki-tô. Thật vậy, Đức Ki-tô đã tự nguyện
sống khiết tịnh, độc thân qua việc Người từ bỏ gia đình và yêu thương tất cả mọi
người. Những dữ kiện trong Tin Mừng cho thấy Đức Giê-su thong dong và tự nguyện
chọn một đời độc thân.[63]
Việc
chấp nhận sống đời độc thân của Đức Ki-tô như một dấu chỉ cho một tình yêu phổ
quát, tình yêu không chiếm đoạt, không san sẻ. Tình yêu mà trước khi bước vào
cuộc khổ nạn Người đã ban cho các môn đệ: “Thầy
ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Cứ dấu này mà
người ta nhận ra anh em là môn đệ Thầy là anh em có lòng yêu thương nhau.”[64] Trước khi bước
vào cuộc khổ nạn và tử hình, Đức Giê-su đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể như là dấu
chỉ sống động của một tình yêu trọn vẹn. Người đã hiến ban chính mình cho nhân
loại bằng một tình yêu cao cả. Có thể nói, đỉnh cao của đời sống khiết tịnh nơi Đức Ki-tô thể hiện ở hành vi tự
nguyện hiến thân cho nhân loại với một tình yêu vô điều kiện: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình
thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.”[65]
Tu
sĩ là những người đã chọn theo Chúa cách triệt để qua ba lời khấn. Tuy nhiên, theo
Công đồng Va-ti-ca-nô II, trong các lời khuyên Phúc âm, hồng ân quý giá nhất là“sự tiết độ hoàn hảo vì Nước Trời” trổi
vượt hơn hết.[66] Hồng ân của Thiên Chúa được
“Cha ban cho một số người”[67], để họ dễ dàng hiến
mình cho Thiên Chúa với con tim không san sẻ[68] trong
bậc đồng trinh và độc thân…dấu chỉ động lực của đức ái, và như nguồn mạch đặc
biệt sinh nhiều ơn ích thiêng liêng trong thế giới. [69]
Chính Đức Ki-tô tự nguyện sống khiết tịnh độc thân vì Nước Trời làm gương cho
những ai muốn bước theo Người.
Ngày nay, khi cử hành Thánh lễ là
Giáo hội cử hành lại cuộc vượt qua của Đức Ki-tô. Qua việc cử hành này, Giáo hội
đã nhắc nhở cho tín hữu nói chung và tu sĩ nói riêng về tình yêu hoàn bị mà chỉ
duy nhất mình Đức Ki-tô mới có thể mang lại cho nhân loại. Tu sĩ là người được
mời gọi sống khiết tịnh độc thân “trước mặt
tất cả mọi tín hữu là một sự nhắc nhở và cuộc kết hôn kì diệu được Thiên Chúa
thực hiện và sẽ biểu lộ trong tương lai, nhờ thế mà Giáo hội lấy Đức Ki-tô làm
lang quân duy nhất”[70]. Do đó cần phải sống
triệt để hơn chiều kích khiết tịnh của Thánh lễ.
Nơi Bí Tích Thánh Thể, đỉnh cao của
tình yêu tự hiến của Đức Ki-tô cho thấy Người đã sống tự do hoàn toàn để phục vụ
Nước Trời. Bước theo Đức Ki-tô, tu sĩ tuyên khấn khiết tịnh trọn hảo trong đời
sống độc thân. Chính qua đời sống đó mà tu sĩ cảm nghiệm được tình yêu phổ quát
như Đức Ki-tô[71], qua đó sẵn sàng dấn thân
phục vụ Chúa và tha nhân. Tình yêu phổ quát của đời sống khiết tịnh độc thân có
một ý nghĩa cánh chung, như sự loan báo đặc biệt rõ ràng về sự chiếm hữu Chúa
là Đức Lang Quân duy nhất, sẽ được thực hiện cách viên mãn ở thế giới bên kia.[72]
Đó chính là dấu chỉ cho thực tại Nước Trời.
3.2.
Chiều kích Khó
nghèo của Thánh lễ
Đức Ki-tô đã sống nghèo khó qua việc
khước từ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa
[73]. Người vốn là“Đấng giàu có đã trở nên nghèo khó vì chúng
ta”[74]. Khi sống ở thế gian Người đã nêu gương về
đời sống khó nghèo để phục vụ Nước Trời. Trước hết, Người được sinh ra như một
người nghèo, sống cuộc đời ẩn dật nơi làng quê Na-gia-rét. Và khi rao giảng Nước
Trời, Người không có chỗ tựa đầu.[75] Cuối cùng, Đức
Ki-tô đã chết như một kẻ nô lệ và một người nghèo, Người thực sự bị tước lột tất
cả trên thập giá. [76]
Chiều kích khó nghèo của Thánh lễ
được thể hiện qua việc cộng đoàn được mời gọi dâng của lễ cho Thiên Chúa. Của lễ
ở đây không phải là vật chất, tiền bạc…nhưng chỉ là bánh và rượu, là sản phẩm từ
bàn tay lao nhọc của con người, bởi “Ta
muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế”[77]. Thế nên, khi cử
hành Thánh lễ cũng là lúc tu sĩ được mời gọi ý thức về lời khấn khó nghèo. Trước
hết là ý thức về thân phận nghèo nàn của bản thân, không có gì là không bởi
Thiên Chúa ban, ngay cả mạng sống này. Kế đến, những lễ vật dâng cho Thiên Chúa
trong Thánh lễ không phải là những gì cao sang nhưng là những lễ vật mọn hèn.
Qua đó, làm nổi bật khía cạnh nghèo khó trong tâm hồn. “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ.”[78] Người có tâm hồn
nghèo khó, là tất cả những ai không đặt niềm phó thác vào tiền bạc, hay của cải
vật chất. Trái lại, họ là những người biết mở lòng ra với Nước Thiên Chúa.[79]
Khi cử hành Thánh lễ, tu sĩ được mời gọi sống triệt để hơn lời khấn khó nghèo.
Đời sống khó nghèo đó phải được biểu lộ qua nét đơn sơ và tiết độ. Qua đó, đời
sống tu sĩ sẽ trở nên dấu chỉ Nước Trời qua dấu chứng hiệp nhất, nghèo cá nhân,
nghèo tập thể, liên đới với người nghèo, khước từ thỏa hiệp với mọi hình thức bất
công xã hội. Như thế, qua lời khấn khó nghèo, tu sĩ sẽ cho thấy giữa xã hội hưởng
thụ này, tu sĩ là dấu chỉ của Nước Trời qua việc khước từ mọi của cải vật chất,
từ đó có thể gắn bó với Thiên Chúa và đức công chính của Người.[80]
3.3.
Chiều kích Tuân
phục của Thánh lễ
Trong kinh Sáu điều Hội thánh dạy,
thì điều đầu tiên là:“Dự lễ ngày Chúa nhật,
cùng các ngày lễ buộc” cho thấy việc đi lễ ngày Chúa Nhật như có vẻ bắt buộc,
không còn tự do. Ngoài ra, người tín hữu còn phải tuân giữ rất nhiều luật lệ, học
hỏi Giáo lý… Tất cả những điều này đặt ra một câu hỏi cho các tín hữu tại sao
phải tuân phục quá nhiều luật lệ, điều đó có làm mất đi tự do mà Thiên Chúa đã
ban cho con người.
Chiều kích tuân phục trong Thánh
lễ được thể hiện rất rõ nét qua việc cộng đoàn được quy tụ lại để lắng nghe Lời
Chúa. Nơi Thánh lễ, tưởng chừng như có vẻ ép buộc, nhưng ngược lại, người tín hữu
được Lời Chúa thánh hóa dưới sự giáo huấn của người mục tử, là người được Giáo
Hội đặt để thay mặt Chúa.[81]
Thật vậy, những luật lệ của Hội Thánh nhắm đến cứu rỗi các linh hồn.[82] Đó là điều mà Thánh Phao-lô muốn nhắc nhở
cho các tín hữu của ngài và cho mỗi người chúng ta. Ngài chia sẻ “Quả thế, tại vì Lề Luật mà tôi đã chết với Lề
Luật, để sống cho Thiên Chúa”. Lề luật dạy cho Ki-tô hữu biết yêu thương và
qua lề luật mà chúng ta được hướng dẫn để sống trong con đường thánh thiện,
nhưng Ki-tô hữu cũng cần phải chết với lề luật hầu có thể thật sự sống yêu
thương trong Chúa. Thật ra lề luật không có thể biện minh cho mình, và nó cũng
không cho phép chúng ta đoán xét kẻ khác. Bản chất của lề luật là để giúp cho
chúng ta trở nên thánh thiện và chức năng của lề luật dừng lại ở điểm này.[83]
Đức
Ki-tô đã nêu gương cho đời sống tuân phục. Trước hết, Người đã tuân phục Chúa
Cha bằng cách “khước từ địa vị ngang hàng
với Thiên Chúa, mặc lấy thân phận phàm nhân, sống như người trần thế.”[84]
Kế đến, người còn tuân phục đến nỗi bằng lòng chịu chết [85].
Và “khi còn sống kiếp phàm nhân, Ðức
Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Ðấng có
quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu
là Con Thiên Chúa, người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là
vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu
độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.”[86]
Những người sống theo ơn gọi tu trì được mời gọi cách đặc biệt sống lời khấn
tuân phục như Đức Ki-tô đã sống. Nơi Thánh lễ, chiều kích tuân phục được khơi gợi
qua việc tu sĩ được mời gọi suy gẫm Lời Chúa dưới sự hướng dẫn của vị chủ chăn
mà Giáo hội đặt để. Từ đó, tu sĩ sẽ ngoan ngoãn với Thánh Thần trong việc tuân
phục bề trên.
KẾT
LUẬN
Như vậy, vai trò của Thánh Lễ
trong đời sống tu trì thể hiện ở ba điểm:
· Thánh lễ - khơi
nguồn đời sống tu trì
· Thánh lễ - đích
đến của đời sống tu trì
· Thánh lễ - sống mầu
nhiệm Nước Trời ngay thực tại trần thế
Phụng vụ Thánh lễ có vai trò quan
trọng trong đời sống tu trì. Thánh lễ là nguồn mạch khơi gợi đời sống thánh hiến.
Bên cạnh rất nhiều chiều kích của Thánh lễ như: Bữa Tiệc Của Chúa, Hy Tế Thập
Giá, …thì với ba chiều kích Khó nghèo, Khiết tịnh và Tuân phục của Thánh lễ
luôn là những lời nhắc nhở về ba lời khuyên Phúc Âm mà bất kì một tu sĩ nào
cũng phải khấn hứa và tuân giữ nếu muốn theo Đức Ki-tô cách triệt để. Nơi Thánh
lễ, hy tế của Đức Ki-tô được hiện tại hóa, thì ba chiều kích Khó nghèo, Khiết tịnh,
Tuân phục cũng được sống động như một hành động mẫu mực nhất mà Đức Ki-tô đã
làm để hiến trọn cuộc đời cho Thiên Chúa và nhân loại. Bước theo Người, những
người chọn cho mình đời sống tu trì cũng phải kín múc ân sủng dồi dào từ Thánh
lễ, hầu có thể không những tuân giữ ba lời khuyên Phúc Âm mà còn biết sử dụng
những lời khuyên ấy như là phương thế hữu hiệu nhất trong đời sống. Ngõ hầu có
thể trở thành những chứng nhân sống động cho Nước Trời ngay thực tại trần thế.
Khi cử hành Thánh lễ, tu sĩ nói
riêng và ki-tô hữu nói chung không những được chính Lời Chúa dạy dỗ và hướng dẫn
qua sự giáo huấn của mục tử mà còn được chính Mình Máu Thánh Chúa nuôi dưỡng phần
linh hồn. Đó là phương thế hữu hiệu nhất bảo đảm cho những ai muốn sống lại
trong ngày Đức Ki-tô quang lâm: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được
sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây,để cho thế gian
được sống.”[87]
MAPHUC,SSS
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.TÀI
LIỆU GIÁO HỘI
Hiến
Chế Tín Lý Về Giáo Hội
Hiến
Chế Về Phụng Vụ Thánh
Kinh
Thánh Trọn Bộ
Luật
Sống Dòng Thánh Thể
Sách
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo
Sách
Lễ Rô-ma
Từ
Điển Công Giáo
Tông Hiến Đời
Thánh Hiến, 1996.
2.CÁC
SÁCH
Lê
Văn Chính, Giáo Trình Giáo Phụ Học, Đại
chủng viện Thánh Giu-se, 2009
Nguyễn
Văn Trinh, Phụng Vụ Thánh Lễ, NXB Tôn
Giáo, Hà Nội, 2008.
Những
Văn Kiện Đời Tu, Theo Chúa Ki-tô, Học
Viện Đa-minh, 2006.
Phạm Đình Ái, Để Nhớ Đến Thầy, NXB Phương
Đông, 2014.
Phạm Đình Ái, Cử Hành Hy Lễ Tạ Ơn, NXB Phương
Đông, 2014.
Phan
Tấn Thành, Giải Thích Giáo Luật, Học
viện Đa-minh, Gò Vấp.
Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rô-ma, Rô-ma - Ấn bản
mẫu thứ ba, 2000.
Trần
Đình Long, Thánh Lễ Gõ Nhịp Cho Cuộc Sống,
Học Viện Thánh Thể, 2007.
Tác
giả?, Người Tu Sĩ Trưởng Thành (phần III:
Trưởng Thành trong Đời Sống Thánh Hiến, Đà lạt, 1994.
Vũ
Thái Hòa, Bí Tích Thánh Thể, Nguồn Gốc, Lịch
Sử, Ý Nghĩa, Lưu Hành Nội Bộ, 2005.
Vũ Thái Hòa, Một
Suy Tư Phụng Vụ và Mục Vụ về Thánh Lễ Chúa Nhật, Lưu Hành Nội Bộ, 2005.
3.CÁC
TRANG MẠNG
Củ
Khoai, Lề Luật, http://cdvngxcbn.org/index.php?option=com_content&view=article&id=748:l-lut&catid=1:cu-nguyn,
truy
cập 10/1/2014.
Bùi
Văn Đọc, Phúc Cho Ai Được Mời Đến Dự Tiệc
Chiên Thiên Chúa, http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/THANHOC/ChuaBaNgoi-ThanhThe/01PhucChoAiDuocMoi.htm,
truy cập
10/1/2014.
Giáo
Phận Vĩnh Long, Tìm Hiểu Thánh Lễ, http://www.giaophanvinhlong.net/Bai-32.-Thanh-Le.html,
truy cập
6/1/2014
Nguyễn Văn Hường, Tầm quan trọng của việc cử hành Thánh Thể đối với đời sống Ki-tô hữu, http://hocvienthanhthe.com/vn/hoc-vien-16-0/176-Tam_quan_trong_cua_viec_cu_hanh_thanh_the_doi_voi_doi_song_nguoi_Ki-to_huu..html,
truy cập
2/1/2014.
Nguyễn Trọng Viễn, Vai Trò Tu Sĩ Trong Xã Hội Hôm Nay, http://daminhvn.net/tai-lieu/3884-vai-tro-tu-si-trong-xa-hoi-hom-nay.html,
Truy cập
4/1/2014.
Rw. STEFANO, Tầm
Quan Trọng Của Thánh Lễ, http://thanhcavietnam.net/forum/showthread.php?t=31742,
truy cập 12/1/2014.
[1] Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Từ Điển Công Giáo, NXB Tôn Giáo, 2011,
tr.306.
[2] Ngô Văn Vững, Đời Sống Thánh Hiến Theo Công Đồng Va-ti-ca-nô
II – Dấu Chỉ, Chứng Từ, Ngôn Sứ, (NXB Tôn Giáo, 2008), tr. 192 - 193.
[3]
Vat. II, Perfecte Caritatis, số
1.
[5] Ngô Văn Vững, Đời Sống Thánh Hiến Theo Công Đồng
Va-ti-ca-nô II – Dấu Chỉ, Chứng Từ, Ngôn Sứ, (NXB Tôn Giáo, 2008), tr. 192.
[7] Hồ Bắc Xái, Tu Sĩ – Ơn Gọi và Sứ Mạng, (NXB Phương Đông, 2012), tr. 9-10.
[8]
Xc. Ngô Văn Vững, Đời Sống Thánh Hiến Theo Công Đồng
Va-ti-ca-nô II – Dấu Chỉ, Chứng Từ, Ngôn Sứ, (NXB Tôn Giáo, 2008), tr. 202.
[9]
Xc. Mt 5,48.
[10]
Xc. Bạch Tuyết, Tu sĩ, Anh, Chị là ai? (Bản dịch Việt Ngữ),
http://.catholic.org.tw/vntaiwan/tailieu/tisi.htm,
Truy cập 21/11/2013.
[11] Ngô Văn Vững, Đời Sống Thánh Hiến Theo Công Đồng
Va-ti-ca-nô II – Dấu Chỉ, Chứng Từ, Ngôn Sứ, (NXB Tôn Giáo, 2008), tr. 138.
[12]
Xc. Ngô Văn Vững, Đời Sống Thánh Hiến Theo Công Đồng
Va-ti-ca-nô II – Dấu Chỉ, Chứng Từ, Ngôn Sứ, (NXB Tôn Giáo, 2008), tr.
245-252.
[13] Bộ Giáo Luật Hội Thánh Công Giáo,
điều 607.
[14] Xc. Đức Giáo Hoàng Gio-an
Phao-lô II, Vita Conserata, số 16.
[16]
Ga 13, 35.
[18]
Nguyễn Trọng Viễn, Vai Trò Tu Sĩ Trong Xã Hội Hôm Nay, http://daminhvn.net/tai-lieu/3884-vai-tro-tu-si-trong-xa-hoi-hom-nay.html,
Truy cập 4/1/2014.
[21]
Xc. Lc 10, 42.
[23]
Xc. Mc 16, 15.
[24]
Ga 10, 36.
[25]
Xc. Pl 2, 6-7.
[26]
Lc 17, 32.
[27]
Ga 15, 13.
[28]
Lc 22, 19.
[29] Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II,
Tông Hiến Đời Thánh Hiến, 1996, tr.
7.
[30] Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rô-ma, số 47.
[31] Xc. Gl 3, 28.
[32]
Xc. 1Pr 2,9-10.
[33]
Xc. Phạm Đình Ái, Để Nhớ Đến Thầy, (NXB Phương Đông, 2014), tr. 10-12.
[34] Trần Đình Long, Thánh Lễ Gõ Nhịp Cho Cuộc Sống, Học Viện
Thánh Thể, 2007, tr. 30.
[35]
Mt 18, 20.
[36] Trần Đình Long, Thánh Lễ Gõ Nhịp Cho Cuộc Sống, Học Viện
Thánh Thể, 2007, tr. 11.
[37]
Mt 6, 33.
[38] Xc. Trần Đình Long, Thánh Lễ Gõ Nhịp Cho Cuộc Sống, Học Viện
Thánh Thể, 2007, tr. 60-64.
[42]
Xc. Hr 1, 1-2.
[45]
Mt 4, 4.
[47] Quy Chế Tổng Quát Sách Lễ Rô-ma, số 56.
[48]
Vat.II, Presbyteorum Ordinis, số 4.
[51]
Cv 8, 31.
[53] Xc.
Vũ Thái Hòa, 40 Câu Hỏi Về Thánh Lễ, (France, 1996), câu
30, tr.43.
[56] Sách Lễ Rô-ma, Kinh nguyện Thánh Thể III.
[57] Từ Điển Công Giáo, tr.151.
[58] Sách Lễ Rô-ma.
[59]
Bùi Văn Đọc, Phúc Cho Ai Được Mời Đến Dự
Tiệc Chiên Thiên Chúa, http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/THANHOC/ChuaBaNgoi-ThanhThe/01PhucChoAiDuocMoi.htm,
truy cập 10/1/2014.
[60]
Xc. Mt 22, 1-14; Lc 14, 15-24.
[61]
Xc. Gl 3, 28.
[62]
1Cr 10, 16-17.
[63]
Xc. Đỗ Ngọc Bảo, Đời Tu Gan Đục Khơi Trong, (NXB Tôn Giáo,
2013), tr. 208.
[64]
Ga 13, 34-35.
[65]
Ga 15,13.
[67]
Xc. Mt 19, 11; 1Cr 7, 7.
[68]
1Cr 7, 32-34.
[69] Những Văn Kiện Đời Tu, Theo Chúa Ki-tô, Học Viện Đa-minh, 2006,
tr. 41.
[70] Vat.II, Perfectae caritastis, số 12.
[71] Xc. Luật Sống Dòng Thánh Thể, số
16.
[73] Xc. Pl 2, 6.
[74]
2Cr 8, 9.
[75]
Xc. Mt 13, 55.
[77]
Hc 6, 6.
[78]
Mt 5, 5.
[80] Xc. Luật Sống Dòng Thánh Thể, số
17.
[82] Xc. Phan Tấn Thành, Giải Thích Giáo Luật, Học viện Đa-minh,
Gò Vấp, 2012, tr. 23-28.
[83] Củ Khoai, Lề Luật, http://cdvngxcbn.org/index.php?option=com_content&view=article&id=748:l-lut&catid=1:cu-nguyn,
truy cập 10/1/2014.
[84]
Pl 2,6-8.
[85]
Xc. Pl 2, 8.
[86]
Hr 5,7-9.
[87]
Ga 6, 51.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét