I. GIỚI THIỆU
Trong tác phẩm “Linh Mục Cho Ngàn
Năm Thứ Ba”, Đức Tổng Giám mục Timothy M. Dolan đã cho thấy nhiều thuận
lợi cũng như thách đố cho đời sống linh mục trong ngàn năm thứ ba. Tác giả
không chỉ trình bày đời linh mục từ khi lãnh tác vụ mà còn trình bày cả một đời
sống ki-tô hữu trước đó của linh mục. Thời gian đào tạo một linh mục không chỉ
giới hạn trong chừng mực thời gian nào đó mà là cả một đời người. Thật vậy,
ngàn năm thứ ba đã mang lại cho đời linh mục nhiều thách đố hơn bao giờ hết. Linh
mục chỉ có thể vượt qua những thách đố này chỉ bằng cách trở về với căn tính của
mình và lấy đó làm cơ sở cho đời sống cũng như công việc mục vụ.
Có nhiều cách thức tiếp cận với căn tính đích thực của
đời sống linh mục như: trở về với Kinh thánh, hay truyền thống Giáo hội, hoặc
theo một ý tưởng nào đó… Tuy vậy, xin được trình bày đời sống linh mục dưới một
khía cạnh khác, một góc nhìn khác, một lăng kính khác. Đó chính là nhìn đời sống
linh mục bằng nhãn giới của một nghệ sĩ.
Việc trình bày đời linh mục như một nghệ sĩ có lẽ sẽ
là điều lạ và khó chấp nhận đối với nhiều người. Bởi lẽ, nghệ sĩ là thành phần
được nhắc đến trong đời sống thường kèm theo những điều tiêu cực. Các nghệ sĩ
hiện nay đang tự làm xấu mình đi trong con mắt mọi người. Không ít nghệ sĩ trở
thành gánh nặng cho xã hội, gây ra những hậu quả nặng nề về đời sống, đạo đức,
nhân bản... Mặc dầu vậy, không thể không công nhận những thành quả tốt đẹp mà
nghệ sĩ mang lại cho cuộc sống trong xuyên suốt lịch sử loài người. Sống trong
ngàn năm thứ ba, con người ngày nay đề cao lý trí. Do đó quên mất đi một khía cạnh khác của đời
sống đó là con tim. Chính con tim mới làm cho con người xích lại gần nhau hơn.
Phải nói rằng nghệ sĩ là những người sống bằng tình cảm, cảm xúc, bằng con tim.
Điều này có cái gì gần như tương đồng với đời sống đạo đức bình dân của đại đa
số ki-tô hữu – sống đạo bằng cảm thức đức tin. Mà cảm thức đức tin là điều không thể sai lầm bởi toàn thể Dân Chúa được Đấng
Thánh xức dầu và nếu từ Giám mục đến những người bé mọn nhất trong các tín hữu đều đồng thuận về những điều liên quan đến đức
tin và phong hóa.[1]
Bên cạnh đó, chân lý đức tin mà Giáo hội đã kín múc được
xuất phát từ tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Sách Giáo lý Hội thánh Công
Giáo dạy rằng chân lý thường được diễn tả bằng lời nói, một sự diễn tả hữu lý của
nhận thức về thực tại. Nhưng chân lý cũng được diễn tả bằng những nhận thức
khác nhau để bổ túc cho nhau, nhất là khi vấn đề phải gợi lên bao hàm những điều
khôn tả, những điều sâu thẳm của trái tim con người hay những điều huyền nhiệm
của Thiên Chúa. Trước khi tự mặc khải cho con người bằng những lời chân lý,
Thiên Chúa đã mặc khải cho họ qua ngôn ngữ hình ảnh là công trình tạo dựng với
tất cả vẻ đẹp và trật tự hài hòa[2], “vì
chính Đấng Tạo Hóa mọi loài là tác giả của muôn vẻ đẹp.”[3]
Có thể nói, linh mục là những người rao truyền chân lý
đức tin. Mà chân lý đức tin được diễn tả bằng
nhiều cách thức khác nhau. Thiết nghĩ diễn tả chân lý đức tin bằng con mắt của
một nghệ sĩ cũng không phải là điều lạ và không thể chấp nhận. Bởi chính Thiên
Chúa, trong công trình tạo dựng cũng cho thấy Ngài chính là một Nghệ Sĩ của mọi
thời đại.
Từ những ý tưởng trên,
xin được trình bày đề tài “Linh mục, nghệ sĩ của Chúa” với các mục sau:
· Linh mục họa lại đời mình theo chân dung Đức Giê-su
Ki-tô
· Linh mục phải có tâm hồn nghệ sĩ
· Linh mục là một nhà làm nghệ thuật
Nhưng trước hết ta cũng cần phải khảo sát vài nét về
nghệ sĩ, nghệ thuật nói chung cũng như trở về nguồn để xem căn tính của đời
linh mục là gì.
II. CHÂN DUNG NGHỆ SĨ
1. Chân dung nghệ sĩ trong cuộc
sống
1.1. Nghệ sĩ là ai?
Thuật ngữ “nghệ sĩ” được sử dụng khá rộng rãi trong đời sống lẫn trong
nghiên cứu nghệ thuật. Trong đời sống, thuật ngữ “nghệ sĩ” được dùng để chỉ
tính chất, đặc điểm của những người vốn không phải là nghệ sĩ nhưng có một tâm
hồn lãng mạn, giàu cảm xúc. Trong nghiên cứu, lý luận, phê bình nghệ thuật thì
thuật ngữ “nghệ sĩ” dùng để gọi những người chuyên sáng tạo hoặc biểu diễn nghệ
thuật.
Có nhiều quan điểm khác nhau về hình ảnh và tư chất của
nghệ sĩ, chẳng hạn như:[4]
H. de Balzac (1799-1850) gọi
nghệ sĩ là “ người thư ký của thời đại”
V. Hugo (1802-1885) coi nghệ
sĩ là “ngọn đuốc soi đường”
E. Zola (1840-1902) nói rằng
“ nghệ sĩ là lương tâm của thời đại”
Theo cách hiểu thông thường, “nghệ sĩ” là người chuyên hoạt động (sáng tác hoặc biểu diễn) trong
một bộ môn nghệ thuật. “Nghệ sĩ” là người sáng tạo ra loại hình nghệ thuật như
vẽ, đồ họa, chạm khắc, chụp ảnh, làm mô hình, diễn kịch sân khấu… về các ý tưởng
và cảm xúc lành mạnh với văn hóa xã hội. Có thể nói, khái niệm “nghệ sĩ” gắn liền
với khái niệm “nghệ thuật”. Vì vậy khái niệm “nghệ sĩ” phụ thuộc nhiều vào cách
hiểu về nghệ thuật. Ở một góc độ khác, “nghệ sĩ” là người luôn nhạy cảm, dễ
dàng khám phá, sáng tạo ra cái đẹp trong cuộc sống. Cũng có ý kiến cho rằng “nghệ
sĩ” phải là người có năng lực sáng tác phong phú, hay “nghệ sĩ” phải là người
có tâm hồn xúc động và nhạy cảm, phải có trí nhớ tốt…
Như vậy, có nhiều quan điểm khác nhau về tư chất của
nghệ sĩ, nhưng ta có thể tóm gọn như sau: Nghệ sĩ là người có phẩm chất đặc biệt,
có tài năng về nghệ thuật. Tuy nhiên một người giỏi nghệ thuật thì chưa hẳn là
một nghệ sĩ thực thụ. Bởi không nhất thiết một người làm nghệ thuật phải có tâm
hồn nghệ sĩ và ngược lại.
Ta có thể đưa ra một vài tư
chất đặc trưng của nghệ sĩ như sau:
· Nghệ sĩ là người có tâm hồn phóng khoáng
Phóng khoáng ở đây không có nghĩa là thích gì làm đó,
sống sao cũng được. Một nghệ sĩ phóng khoáng
là người sáng tạo dựa trên nền tảng, khuôn phép, lề luật của bộ môn nghệ thuật
mà họ đang theo đuổi. Một nghệ sĩ phóng khoáng là người luôn làm việc một cách
nghiêm túc. Chính vì tư cách phóng khoáng này mà nghệ sĩ đã vươn lên lề luật và
khuôn khổ. Họ không bị ràng buộc bởi luật, mà hơn thế nữa, qua luật họ sáng tạo
trong tự do.
· Nghệ sĩ là người có tâm hồn nhạy cảm và cởi mở.
Giá trị nghệ thuật không đơn thuần chỉ là kết quả của
tài năng mà hơn nữa còn là kết quả của một trái tim luôn thổn thức, thiết tha
yêu cuộc sống, một tâm hồn giàu xúc động, tính xúc động mãnh liệt. Tình cảm là biểu hiện tâm lý của con người
nói chung. Ðã là người, ai cũng có những yêu, ghét, hờn giận, vui buồn... nhưng
ở nghệ sĩ điều này trở nên đặc biệt, dễ xúc động, dễ nhạy cảm. Thật vậy, nghệ sĩ nếu không có cảm xúc thật sự thì sẽ
không có sáng tạo nghệ thuật chân chính. Do đó, để có được những tác phẩm nghệ
thuật đích thực đòi hỏi nghệ sĩ phải có tâm hồn nhạy cảm, cởi mở. Nhạy cảm, cởi
mở không chỉ với bản thân con người mà còn với cả thiên nhiên vũ trụ. Chính nhờ
tư chất nhạy cảm cởi mở này mà nghệ sĩ luôn khám phá ra cái đẹp trong cuộc sống,
ngay cả khi cuộc sống đó toàn đau khổ, tang thương.
· Nghệ sĩ là người luôn khao khát giới thiệu cái đẹp cho
mọi người
Không chỉ dừng lại ở một tâm hồn nhạy cảm cởi mở, dễ
dàng khám phá ra cái đẹp, mà hơn thế nữa nghệ sĩ phải luôn khao khát, mong mỏi
mang cái đẹp đến mọi người. Trong lời diễn từ đọc tại lễ nhận thưởng giải
Nô-ben ngày 14/2/1957 nhà văn Albeert Camus (1913-1960) nói rằng: “…đối với tôi, nghệ thuật không phải là lạc
thú để hưởng thụ một mình. Nó là phương tiện để cảm xúc một số quần chúng lớn
lao nhất bằng những hình ảnh đặc thù về những nỗi đau thương chung. Như vậy, nó
buộc nghệ sĩ không được sống lẻ loi. Nó buộc nghệ sĩ phải phục tùng sự tầm thường
nhất và đại chúng nhất. Và kẻ nào đã chọn cái số kiếp của nghệ sĩ vì tự cảm thấy
mình khác người, kẻ đó sớm biết rằng hắn giống tất cả mọi người. Người nghệ sĩ
tự rèn luyện mình trên con đường giao tiếp thường trực giữa hắn với thiên hạ, ở
khoảng giữa cái đẹp mà hắn không thể bỏ qua được và cái cộng đồng mà hắn không
thể tách rời được.”[5]
Thật vậy, nghệ sĩ không thể tồn tại một mình vì những tác phẩm nghệ thuật phải
cần được công chúng công nhận. Hơn nữa, chẳng một nghệ sĩ nào lại muốn những đứa
con tinh thần của mình bị chôn vùi hoặc quên lãng. Họ luôn khao khát giới thiệu
đến công chúng.
Tóm lại, có thể nói tư chất của một nghệ sĩ bao gồm ba
yếu tố cơ bản sau:
- Thứ nhất, nghệ sĩ là người
có tâm hồn phóng khoáng.
- Thứ hai, nghệ sĩ phải là
người nhạy cảm, cởi mở.
- Thứ ba, nghệ sĩ phải là người luôn biết mang cái đẹp
đến cho mọi người.
1.2. Nghệ thuật
Trong tác phẩm Nghệ Thuật Là Gì? được xuất bản năm 1896, tác giả Toltoy
đã định nghĩa nghệ thuật như sau: “Nghệ
thuật như một hình thức truyền đạt cảm xúc mà một người đã trải qua tới một người
khác, khiến cho những người này cũng bị lây nhiễm cảm xúc đó.”
Có nhiều quan niệm và cách thức phát biểu khác nhau về
nghệ thuật. Ý nghĩa đầu tiên và rộng nhất của từ này là để chỉ những hoạt động
của con người đạt đến trình độ khéo léo tinh sảo. Ý nghĩa thứ hai hạn hẹp hơn.
Nghệ thuật chỉ những hoạt động của con người nhắm sáng tạo những sản phẩm vừa
có ý nghĩa thực dụng, vừa có khả năng làm đẹp cho đời, đem lại những khoái cảm
thẩm mĩ cho con người. Ý nghĩa thứ ba của thuật ngữ nghệ thuật nhằm để chỉ những
hoạt động sáng tạo mang tính đặc thù, với mục đích sáng tạo ra những cái đẹp
làm thỏa mãn nhu cầu thẫm mỹ cho con người. [6]
Theo Tự điển Tiếng Việt của Viện
Ngôn Ngữ Học cho biết nghệ thuật như sau: “Nghệ
thuật 1. Là hình thái ý thức xã hội đặc biệt, dùng hình tượng sinh động, cụ thể
và gợi cảm để phản ánh hiện thực và truyền đạt tư tưởng, tình cảm – 2. Là
phương pháp, phương thức giàu tính sáng tạo.”[7]
Một Từ điển khác về Tiếng Việt lại định nghĩa Nghệ thuật như sau: “Sự thể hiện cái đẹp bằng những tác phẩm của
con người; hoạt động trước hết bằng trí tuệ, nhằm mục đích thẩm mỹ, làm thể hiện
cái đẹp qua màu sắc, hình thể, âm điệu.”[8]
Dựa vào hai định nghĩa về nghệ thuật trên, xem ra còn
có nhiều định nghĩa khác nhau về nghệ thuật. Tuy vậy, nghệ thuật không đơn giản
có thể định nghĩa được hay hiểu hết được ý nghĩa của nó, bằng chứng là nghệ thuật
đã được hiểu tương đối khác nhau trong những thời kỳ khác nhau. Ở đây, xin được
liệt kê một vài thời kỳ tiêu biểu sau:
· Thời cổ đại: Người ta chia nghệ thuật làm bảy loại hình nghệ thuật
tự do là Văn phạm, Logic, Hùng biện, Số học, Hình học, Âm nhạc, Thiên văn học.
Mẹ của cả bảy loại hình nghệ thuật này là Triết học. Ngoài ra các loại hình nghệ
thuật khác như: Kiến trúc, Nông nghiệp, Hội họa, Điêu khắc…được xếp ở hàng thấp
hơn.
· Thời trung cổ: Nghệ thuật được xem là đứa con của tự nhiên.
· Cuối thế kỷ
18: Đến cuối thế kỷ 18, thuật ngữ
“nghệ thuật” được sử dụng rất rộng rãi để bao hàm mọi hình thức kỹ năng của con
người và tất cả những gì con người có thể tạo ra bằng tài nghệ khéo léo.
· Thế kỷ 19: Trong thế kỷ 19, thuật ngữ “nghệ thuật” bắt đầu được
dùng chủ yếu cho một loại hình nghệ thuật, cái gọi là “nghệ thuật tạo hình”.
Người Hy lạp và La mã cổ đại không loại trừ những ngành như: điêu khắc, âm nhạc,
thi ca…khỏi danh sách các nghệ thuật của họ. Tuy nhiên, họ không tuyên dương những
ngành nghệ thuật này như nghệ thuật tới mức loại bỏ hết mọi sự tạo tác khác của
con người. Khái niệm về nghệ thuật của họ bao gồm mọi thứ mà con người có kỹ
năng hay bí quyết chế tác ra.
· Hiện nay:
üTheo nghĩa hẹp
Ngày nay, người ta thường dùng thuật
ngữ “nghệ thuật” với nghĩa rất hẹp. Trước hết, con người ngày nay thường quên rằng
nghệ thuật liên hệ chủ yếu đê kỹ năng mà một người có và chỉ liên hệ chủ yếu đến
các tác phẩm, những sản phẩm của công nghệ khéo léo. Kế đến, người ta cũng thường
đồng nhất nghệ thuật với nghệ sĩ và người có đầu óc thẩm mỹ.
ü Theo nghĩa rộng
Theo cách dùng truyền thống, thuật ngữ “nghệ thuật”
bao hàm mọi hình thức kỹ năng của con người và mọi thứ mà con người có thể đem
lại bằng các kỹ năng. Trong nghĩa rộng này, ta có thể phân biệt những loại hình
nghệ thuật khác nhau và đồng thời nhận ra cái gì chung cho tất cả.
Tóm lại, rất khó để đưa ra một định nghĩa xác đáng về
nghệ thuật và cũng khó để nhận định cái gì là nghệ thuật cái gì không mang giá
trị nghệ thuật.
1.3. Vai trò của nghệ sĩ trong đời
sống
Như những gì đã trình bày trên cho thấy nghệ sĩ có vai trò quan trọng
trong cuộc sống. Nghệ sĩ không những có khả năng khám phá ra cái đẹp mà còn biết
tạo ra cái đẹp. Thật vậy, chính những phẩm chất của nghệ sĩ mà người làm nghệ
thuật có thể tạo ra những tác phẩm trừu tượng và cụ thể giúp ích cho đời sống
con người. Qua tác phẩm của mình, nghệ sĩ có khả năng lam lây lan cảm xúc. Tức
là truyền tải cảm xúc từ người này qua người khác. Mà cảm xúc là một trong những
yếu tố rất quan trong trong đời sống. Con người sống không thể không có cảm
xúc. Chính khi làm lây lan cảm xúc, nghệ sĩ qua tác phẩm của mình sẽ giúp mọi
người gần gũi và liên kết với nhau hơn.
Ngoài ra, nghệ sĩ qua những tác phẩm nghệ thuật của
mình còn có vai trò giúp con người thư giản, nghỉ ngơi. Thật vật, nghệ thuật có
vai trò làm cho con người thư giản, giải tỏa những căng thẳng trong cuộc sống.
Chẳng hạn như khi chiêm ngắm một bức tranh đồng quê yên ả, ta sẽ cảm thấy thoải
mái, nhẹ nhàng, hoặc khi nghe một bài hát, những giai điệu có tác dụng làm phấm
trấn tinh thần, giúp giảm tỏa stress, căng thẳng…
Như vậy, nghệ sĩ có vai trò quan trọng trong cuộc sống.
Chính sự hiện diện của nghệ sĩ đã làm cho cuộc sống ngày càng tươi đẹp và thi vị
hơn.
2. Chân dung nghệ sĩ theo quan
niệm Ki-tô giáo
2.1. Thiên Chúa - Đấng Sáng Tạo
Lật lại những trang đầu của Kinh Thánh, sách Sáng Thế đã giới thiệu Thiên Chúa như một khuôn mẫu cho tất cả
những ai đang tạo ra một tác phẩm. Qua cách miêu tả, tác giả sách Sáng Thế đã trình bày một Thiên Chúa như một nghệ sĩ tài ba. “Nghệ sĩ” này không chỉ biết sáng
tạo ra muôn loài mà còn biết tự thẩm định, đánh giá tác phẩm của mình là đẹp: “ Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ...Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt
đẹp!”[9]
Trình thuật trong sách Sáng Thế đã cho thấy Thiên Chúa vừa là Đấng
Tạo Hóa vừa là một nghệ nhân tài ba. Tuy nhiên, “người sáng tạo”
và “nghệ nhân” thì khác nhau. Theo Đức Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II: “Người sáng tạo
là người mang tới sự hiện hữu, đưa một sự gì đó ra khỏi cõi hư vô, như ngạn ngữ
La-tinh thường nói: “ex nihilo sui et
subjecti” (từ hư vô của mình và của chủ thể), và hiểu cho chặt nghĩa thì đây là
cách hoạt động của một mình Đấng Tối Cao. Trái lại, “nghệ nhân” sử dụng một vật
gì đó đã có, rồi cho nó một hình dạng và một ý nghĩa. Đây là cách hoạt động
riêng của con người, một hữu thể đã được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa.” [10]
Như vậy, chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng Sáng Tạo. Nơi Ngài, hay nói cách
khác chính Ngài là cái đẹp tuyệt đối, cái đẹp hoàn bị, là cội nguồn sáng tạo,
là đỉnh cao của mọi hoạt động nghệ thuật của con người. Con người chỉ được tạo
dựng nên theo hình ảnh vô cùng đẹp đẽ của Thiên Chúa và chính Ngài đã trao phó
cho con người nhiệm vụ thống trị mặt đất.[11] Hơn thế nữa, con người còn được Thiên Chúa mời gọi cộng tác vào công trình sáng tạo qua việc
giao cho con người nhiệm vụ của những nghệ nhân. Chính qua “hoạt động sáng tạo
nghệ thuật” ấy mà hơn bao giờ hết, con người cho thấy mình “giống Thiên Chúa”.[12]
Cái đẹp thụ tạo, cái đẹp do những
nghệ nhân làm ra, hay cái đẹp của thiên nhiên
vũ trụ chỉ là phản ảnh phần nào cái đẹp của Thiên Chúa, như trong thư gửi cho
các nghệ sĩ, Đức Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô
II đã khẳng định điều đó:“Cái đẹp là chìa khoá mở cửa mầu nhiệm và là tiếng gọi
mời ta vươn lên cao. Đó cũng là tiếng nói mời gọi ta cảm nếm cuộc sống và mơ về
tương lai. Chính vì thế, cái đep của thụ tạo không bao giờ có thể làm ta cảm thấy
thoả mãn hoàn toàn. Nó khơi dậy nỗi nhớ nhung thầm kín về Thiên Chúa, một sự thật
mà chỉ có người mê say cái đẹp như thánh Augustinô mới diễn tả được một cách
tuyệt vời như sau: “Con yêu Chúa quá muộn màng, ôi vẻ đẹp rất xưa mà rất mới;
con yêu Chúa quá muộn màng”[13].
2.2. Đức Giê-su –nghệ sĩ chân
chính
Luật Cựu Ước đã công khai
nghiêm cấm hình dung “Thiên Chúa vô hình và khôn tả” bằng những “hình tạc hay tượng đúc”[14], vì Thiên
Chúa siêu vượt trên mọi sự hình dung bằng vật chất: “Ta sao thì Ta vậy”.[15] Tuy nhiên,
qua mầu nhiệm Nhập Thể, Con Thiên Chúa đã trở nên hữu hình: “Khi thời gian đã đủ, Thiên Chúa đã sai Con
Ngài xuống, sinh ra từ một phụ nữ”[16]. Thiên Chúa
đã trở thành con người nơi Đức Giê-su Ki-tô; vì thế, Đức Giê-su đã trở thành
“tâm điểm cần tham chiếu nếu muốn hiểu biết bí mật về kiếp sống con người, về
thế giới đã được tạo thành và về
chính Thiên Chúa”.[17]
Có nhiều góc độ khác nhau để tham chiếu chân dung của Đức Giê-su,
tuy vậy, với cái nhìn ở góc độ nghệ thuật thì Đức Giê-su là một nghệ sĩ chân
chính. Câu hỏi đặt ra đó là: Đức Giê-su đẹp đẽ hay
không? Hàm ẩn trong đó câu hỏi căn bản hơn xem thế nào là cái đẹp hay cái thực
sự không xấu, cho ta hiểu cái thực sâu xa nhất của thực tại. Bất cứ ai tin vào
Thiên Chúa, Đấng biểu lộ chính mình, biểu lộ rõ ràng nơi con người Đức Giê-su
bị hành hạ, chịu đóng đinh làm thành Tình Yêu đến cùng[18],
người ấy sẽ biết rằng cái đẹp là cái thật và cái đẹp thật. Trong nỗi khổ đau của
Đức Giê-su trải qua, người ấy sẽ tiếp nhận thêm rằng cái đẹp của sự thật cũng
đón nhận cả những xúc phạm, đớn đau, và cả mầu nhiệm thăm thẳm của cái chết,
nhất là học biết rằng cái đẹp là cái thật và cái đẹp thật chỉ có thể trổ sinh
khi đón nhận khổ đau chứ không do lãng quên đau khổ. [19]
Đức Giê-su thực sự đẹp thể
hiện ở tư chất nghệ sĩ của Ngài. Trong đời sống của Đức Giê-su, tư chất nghệ sĩ
thể hiện rõ nét nhất ở những 3 điểm sau:
2.2.1. Nghệ thuật giảng dạy
Trong Tân ước, Ráp-pi là danh hiệu được dành cho Đức Giê-su nhiều hơn bất
cứ danh hiệu nào khác. Ngay từ khi Đức Giê-su lên 12 tuổi Người đã “ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ vừa đặt
câu hỏi.”[20]
Khi Đức Giê-su thi hành sứ vụ của mình, Người luôn giảng dạy như một Đấng có uy
quyền, Giáo lý thì mới mẻ.[21] Đức
Giê-su đã giảng dạy không như các Kinh sư và những người Pha-ri-siêu. Người là
một bậc thầy sử dụng ngôn từ trong giảng thuyết. Thuật sử dụng ngôn từ của Người
rất điêu luyện và khéo léo. Người không chỉ dùng ngôn từ Kinh Thánh mà còn dùng
những ngôn từ gợi hình, giản dị, gần gũi phù hợp với đối tượng trong cuộc sống
hằng ngày của dân chúng. Chính điều này làm cho việc giảng dạy của Đức Giê-su
mang tính nghệ thuật.
Trước hết, trong cuộc đời rao giảng của mình, Đức
Giê-su đã trích dẫn Kinh Thánh rất nhiều lần. Đặc biệt trong những lần đối thoại
với những người Do thái, Người đã dùng chính Kinh thánh mà nói chuyện với họ.
Qua đó, Đức Giê-su cho thấy tầm quan trọng của Kinh thánh và Người đến là để ứng
nghiệm những gì Kinh thánh đã nói.
Kế đến, nghệ thuật giảng dạy của Đức Giê-su còn thể hiện
qua việc Người dùng ngôn từ phù hợp với từng đối tượng. Chính cách sử dụng ngôn
từ phù hợp với đối tượng mà người nghe có cảm giác gần gũi, thoải mái và dễ
dàng tiếp thu. Thật vậy, Đức Giê-su khi giảng cho đối tượng nào thì Người dùng
những ngôn từ phù hợp với đối tượng đó. Người lấy những hình ảnh đời thường để
mặc vào đó một tư tưởng cao siêu. Chẳng hạn khi Người giảng cho người trí thức
như ông Ni-cô-đê-mô, thì Người dùng những ngôn từ triết lý cao siêu để trình
bày cho ông[22]. Còn khi Đức Giê-su giảng
cho một người bình dân, thì Người dùng những
ngôn từ hình ảnh hằng ngày, như trường hợp Người giảng cho người phụ nữ xứ Sa-ma-ri.
Người đã lấy hình ảnh “nước tự nhiên”
dùng hằng ngày để nói về “Nước Hằng Sống”[23] Quả
thật, Đức Giê-su là mẫu gương tuyệt vời về việc sử dùng những ngôn từ trong giảng
thuyết. Người hiểu rõ đối tượng và dùng ngôn từ phù hợp với sự hiểu biết của đối
tưởng đó để rao giảng. Nhờ đó, họ đã tin và đón nhận Tin Mừng một cách dễ dàng.
Ngoài ra, nghệ thuật giảng dạy của Đức Giê-su còn thể
hiện qua việc Người dùng ngôn từ dễ hiểu, gần giũ với khán giả. Ngôn từ đơn giản, gần gũi thường dễ làm xúc
động lòng người. Khi giảng, diễn giả cần dùng những lời lẽ đơn giản, gần gũi với
người nghe sẽ tạo được ấn tượng tốt. Đây cũng là một nghệ thuật biểu đạt ngôn từ
tinh tế[24], vì người nghe
luôn háo hức muốn nghe những điều liên quan đến họ. Đức Giê-su hiểu được điều này,
nên Người nói về những vấn đề thiết thực với người nghe. Chẳng hạn như: “Ai cứ xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy,
ai gõ cửa thì sẽ mở cho. Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, lại
lấy rắn thay vì cá mà cho nó? Hoặc nó xin trứng, mà lại cho nó bọ cạp?”[25] …Thật vậy, Đức
Giê-su đưa vào bài giảng của mình những ngôn từ giản dị và những dẫn chứng đời
thường. Vì thế, thính giả luôn chú ý đến những lời của Người thốt ra, vì nó có
liên quan đến cuộc sống của họ, nhắc đến những lợi ích thiết thực và những khó
khăn trong cuộc sống mà họ đang gặp phải. Quả thật, Đức Giê-su luôn quan tâm đến
những con người bé mọn. Khi giảng về vị mục tử nhân lành, Đức Giê-su đưa hình ảnh
người chăn chiên. Hình ảnh người chăn chiên, người Do thái ai cũng hiểu, vì điều
này gần gủi với họ. Đức Giê su đã dùng hình ảnh mục tử tốt để nói về mình: “Tôi chính là mục tử nhân lành, mục tử nhân
lành hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử,
và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói
vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn”[26].
Cũng vậy, khi Đức Giê-su nói đến việc liên kết với Thiên Chúa để sinh nhiều ơn
ích trong cuộc sống, thì Người dùng đến cây nho: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền
với Thầy mà không sinh hoa trái thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái
thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn…”[27]
Cuối cùng, nghệ thuật giảng dạy của Đức Giê-su còn thể
hiện qua việc Người biết sử dụng ngôn từ gợi hình. Diễn giả muốn người nghe hiểu rõ vấn đề, hãy dùng những ngôn từ gợi
hình về điều mình muốn truyền đạt cho họ. Vì tính ưu việt của ngôn từ là gợi
lên những hình ảnh sống động. Bởi lẽ, dây thần kinh từ mắt tới não lớn hơn rất
nhiều lần dây thần kinh từ tai tới não. Các nhà khoa học cho biết rằng những gì
đập vào mắt bằng hình ảnh lôi kéo sự chú ý gấp 25 lần những gì nghe được từ tai.
[28] Tục
ngữ Việt Nam có câu: “Trăm nghe không bằng
một thấy”. Thật vậy, thính giả vừa nghe vừa mường tượng lại những hình ảnh
đã thấy hoặc đã sống thì họ sẽ dễ dàng nắm bắt tư tưởng và hứng thú lắng nghe.
Đức Giê-su đã nắm bắt rất rõ điều này do đó mà Người đã thường xuyên sử dụng những
dụ ngôn có tính gợi hình cao. Chẳng hạn như dụ ngôn Người tá điền sát nhân[29],
dụ ngôn Người gieo giống[30], dụ
ngôn Người mục tử nhân lành[31]…
Tóm lại, Đức Giê-su là một nghệ sĩ chân chính thể hiện qua việc Người
có một nghệ thuật giảng dạy rất đặc biệt, Người biết cách trích dẫn Kinh thánh,
sử dụng ngôn từ phù hợp với từng đối tượng, sử dụng những ngôn từ dễ hiểu, gần
gũi với khán giả và Người còn sử dụng ngôn từ gợi hình. Chính những điều này đã
làm cho các giảng dạy của Đức Giê-su khác với các Ráp-pi khác. Chính vì thế, những
người Do thái đã phải thốt lên: “Thế
nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, Người dãy lại có uy quyền.”[32]
2.2.2. Nghệ thuật lãnh đạo.[33]
Hầu hết các tài liệu lãnh đạo đều đồng ý rằng nhà lãnh đạo là những cá
nhân có tầm nhìn, có khả năng thu hút nhiều người đi theo họ là những người biết
chia sẻ tầm nhìn của mình với người khác và có khả năng tập họp mọi người thành
nhóm để đạt được mục tiêu chung. Tuy vậy, Đức Giê-su trong các lãnh đạo của
mình lại thể hiện một cách thức hoàn toàn khác biệt. Chính sự khác biệt này làm
nên nét độc đáo trong đời sống của Đức Giê-su và điều đó cũng thể hiện Đức
Giê-su có một nghệ thuật lãnh đạo độc đáo.
Trước hết, Đức Giê-su hoàn toàn tự nhận thức, làm bén rễ trong mối quan
hệ với Chúa Cha. Đây là điều đã củng cố phong cách lãnh đạo khác biệt của Đức
Giê-su với những nhà lãnh đạo khác. Đức Giê-su đã làm rõ điều này khi Người
dùng hình ảnh cành nho gắn liền với cây nho[34].
Đức Giê-su đã gắn kết mật thiết với Chúa Cha như thế nào thì Người cũng muốn
các môn đệ của Người gắn kết với Người như vậy, như cành nho gắn kết với cây
nho và tất cả nên một trong Thiên Chúa.
Kế đến, nghệ thuật lãnh đạo Đức Giê-su thể hiện ở việc
Đức Giê-su như một người tôi tớ, Người dám hy sinh tính mạng của mình. Do vậy,
cột mốc thứ hai trong nghệ thuật lãnh đạo của Đức Giê-su chính là tình yêu.
Tình yêu này được biểu lộ cách trọn vẹn qua việc hy sinh mạng sống của mình. Có
lẽ, sự ăn khớp rõ ràng nhất trong quan niệm lãnh đạo của Đức Giê-su thể hiện ở
việc Đức Giê-su nói với các môn đệ khi mà bà mẹ của Gio-an và Gia-cô-bê xin cho
hai con được ngồi bên tả và bên hữu. Đức Giê-su đã dạy các tông đồ về cách thức
lãnh đạo khác thường của mình: “thủ lãnh
các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai
quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy, ai muốn làm lớn giữa anh em thì
phải là người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh
em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục
vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.”[35]
2.2.3. Nghệ thuật thể hiện tình
yêu
Tư chất thứ ba biểu lộ
tư chất nghệ sĩ của Đức Giê-su thể hiện trong cách thức thể hiện tình yêu của Người. Bí tích Thánh Thể mà Đức Giê-su thiết
lập trong đêm trước khi chịu tử nạn cho thấy cách thức thể hiện tình yêu của
Đức Ki-tô mang tính nghệ thuật cao. Chính cách thức thể hiện tình yêu mang tính
nghệ thuật của Đức Giê-su cũng đã là toát lên cái đẹp viên mãn, đẹp hoàn bị của
Thiên Chúa.
a.Nghệ thuật thể hiện qua Tình yêu tự hiến của Đức Giê-su – đỉnh cao của cái đẹp.
Trước hết, cái đẹp của tình yêu tự hiến thể hiện qua sự từ bỏ địa vị
ngang hàng với Thiên Chúa mà Đức Giê-su đã làm hầu cứu độ con người. Thật ra,
nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa đã manh nha được nói đến ngay từ những trang đầu
trong Sáng Thế Ký, sau khi con người đầu tiên phạm tội:“Ta
sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người
ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn
vào gót nó."[36] Trải qua thời gian dài
của lịch sử, vào thời viên mãn thì lời hứa cứu độ ấy được thực hiện qua việc
Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Chính Người là Em-ma-nu-en, là Đấng Mê-si-a
và là Đức Giê-su, Đấng đã được các ngôn sứ loan báo từ trong Cựu Ước, chính
Người sẽ cứu độ con người ra khỏi nô lệ của tội lỗi.[37]
Thật vậy, trong thư gửi cho
tín hữu Phi-líp-phê thánh Phao-lô đã nói rõ: “Ðức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết
duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại
còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” [38]
Như vậy, hành động khước từ địa vị ngang
hàng với Thiên Chúa của Đức Giê-su đã làm toát lên vẻ đẹp của sự từ bỏ. Sự từ bỏ
của Đấng Hằng Hữu để trở nên giới hạn trong thân phận hữu hạn của con người. Sự
từ bỏ của Đấng Sáng Tạo, cội nguồn của cái đẹp hoàn bị lại giới hạn cái đẹp của
mình trong cái đẹp chóng tàn của thân phận con người. Nhưng chính sự từ bỏ cái
đẹp hoàn bị nơi mình lại là lúc cái đẹp nơi Người được tôn vinh, được mặc khải
cho muôn người.
Kế đến, cái đẹp của tình yêu tự hiến thể hiện qua việc
Đức Giê-su hy sinh mạng sống của mình hầu cứu độ muôn người. Thật vậy, “trước kia, hiện nay cũng như sau này, không
có một ai mà Đức Giê-su Ki-tô không chịu khổ nạn cho”[39].
Hội thánh tuyên xưng như thế và đây là một yếu tố trung tâm của đức tin Ki-tô
giáo. Đức Giê-su đã không chết cách tình cờ, cái chết của Người không phải là một
tai nạn bi thảm hoặc một sự kiện ngẫu nhiên. Cái chết đó thuộc về kế hoạch mầu
nhiệm của Thiên Chúa. Người cho phép xảy ra những hành vi xuất phát từ sự mù
quáng của con người để hoàn thành kế hoạch cứu độ của Người.[40] Cái chết của
Đức Giê-su đã khơi gợi một cái đẹp viên mãn. Cái đẹp đó là sự tự nguyện chịu
chết như một hy lễ, một hy lễ tuyệt hảo[41]. Hy lễ ấy
tuyệt hảo vì là hy lễ của tình yêu: “Không
có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống cho bạn hữu”[42] Chỉ có tình
yêu mới có thể giao hòa thực sự. Bằng tình yêu vô tận, Đức Giê-su đền thay cho
“sự thiếu vắng tình yêu” trong mọi tội lỗi của loài người. Tình yêu vô tận ấy
chỉ có được nơi Đức Giê-su: “Không một ai,
dù là người thánh thiện nhất, có khả năng mang lấy trên mình tội lỗi của mọi
người và hiến mình làm hy lễ vì mọi người. Nơi Đức Giê-su, sự hiện hữu của Ngôi
Vị Chúa Con vừa vượt hẳn vừa bao gồm tất cả các nhân vị, khiến cho Đức Giê-su
là Đầu của toàn thể nhân loại, và làm cho hy tế của Người có giá trị cứu chuộc
tất cả mọi người”[43].
Như vậy, qua hành động hy sinh mạng sống,“Đức Giê-su đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng
như lời Thánh Kinh”[44]
đã vẽ lên bức tranh buồn của cái chết, của tang tóc. Nhưng bức tranh ấy lại chứa
đựng cái đẹp sâu lắng, cái đẹp của màu tím hy vọng, cái đẹp ẩn sâu bên dưới
hình ảnh cái chết là sự sống vĩnh cửu bởi “Chính
Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được
sống.”[45]
Cuối cùng, cái đẹp của tình yêu tự hiến được thể hiện
qua việc Đức Giê-su đã mở ra một thực tại mới, thực tại cánh chung cho loài người.
Để sống chiều kích cánh chung ngay thực tại này, ki-tô hữu được mời gọi lãnh nhận
Mình Máu Thánh. Đó là cái đẹp của sự hiệp nhất. Thật vậy, chủ thể của vẻ đẹp
sâu xa của phụng vụ là chính Chúa Giê-su, phục sinh và vinh quang trong Chúa
Thánh Thần, Đấng bao quát Giáo Hội trong công trình của Người.[46]
Nên chính Đức Giê-su mời gọi cộng đoàn phụng vụ hiệp nhất với cái đẹp sâu xa
này qua việc rước Mình Máu Thánh. Khi rước Mình Máu Thánh Chúa, tín hữu được sống
thực tại mới. Một thực tại cánh chung ngay ở đời này.
Tóm lại, cái đẹp nơi Bí tích Thánh Thể trước
hết là Hy Tế Thập Giá của Đức Giê-su hiến ban cho con người. Thánh Thể là bằng
chứng cao nhất về tình yêu Thiên Chúa ban tặng cho con người, là bảo chứng tình
yêu cứu độ được hiến tế trên thập giá. Nơi Bí tích Thánh Thể, Đức Giê-su tiếp tục hiện diện để ban ơn và
chuyển cầu cho dân người,[47] và Người luôn mời gọi tín hữu nên một với Người như
Người nên một Chúa Cha trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần[48]
qua việc hiệp lễ cũng như tôn thờ Đức Giê-su nơi Bí Tích Thánh Thể.
b.
Nghệ thuật trong cách thức thể hiện tình yêu.
Như đã đề cập trong phần trên, trong cuộc sống, khái niệm nghệ thuật được
dùng với nhiều nghĩa. Nghệ thuật có vai trò quan trọng trong cuộc sống con người.
Chính nhờ nghệ thuật mà con người có thể truyền đạt cảm xúc của mình cho người
khác, từ đó thắt chặt hơn tình người, xua tan mọi ngăn cách và đẩy lùi những
cái xấu xa để nhường chỗ cho cái đẹp, cái chân, cái thiện.
Có thể nói, nghệ thuật là nơi bày tỏ tình yêu. Bởi
tình yêu được biết đến như là cái tinh túy nhất của con người. Tình yêu không
chỉ đơn thuần là “một trạng thái tình cảm của chủ
thể này với chủ thể khác ở mức độ cao hơn sự thích thú và phải nảy sinh ý muốn
được gắn kết với chủ thể đó ở một khía cạnh hay một mức độ nhất định” [49], nhưng tình yêu đó còn là A-ga-pe – một thứ tình yêu
trọn vẹn, cho đi tất cả: “Thiên Chúa yêu
mến thế gian đến nỗi ban Con một mình cho thế gian”[50] Chính trong tình
yêu A-g-a-pe này, Đức Giê-su đã có cách thức thể hiện tình yêu mang đầy yếu tố
nghệ thuật.
Trước hết, trong cách thức thể hiện tình yêu, Đức Giê-su đã
thể hiện ra với sự sáng tạo mới và độc đáo. Nhiều tình yêu đẹp được
tìm thấy trong nghệ thuật. Khi yêu nhau người ta có thể làm mọi thứ cho nhau để
thể hiện tình cảm của mình với người yêu. Ca dao tục ngữ Việt Nam của có câu: “yêu nhau mấy núi cũng leo, mấy sống cũng lội
mấy đèo cũng qua” hoặc “yêu nhau cởi
áo cho nhau, về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay.” Tình yêu rất đẹp, lãng mạn, tình tứ. Mỗi người có cách bày tỏ tình yêu của mình ra bên ngoài
khác nhau. Tuy nhiên, tình yêu của Chúa Giê-su
nơi Bí tích Thánh Thể có một sự khác biệt,
nếu không muốn nói là vượt trội hơn tình yêu giữa con người với nhau. Tình yêu
của Đức Giê-su trước hết là tình yêu của Đấng Sáng Tạo với những tạo vật do
chính Ngài dựng nên. Kế đến, lịch sử Cứu độ cho thấy Thiên Chúa dùng nhiều cách
thức để thể hiện tình yêu của mình cho nhân loại. Cuối cùng với sáng tạo độc đáo trong cách thức thể hiện tình yêu, Thiên Chúa, qua hình ảnh Ngôi Lời đã cho thấy rõ nét
nhất tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người như thế nào. Đó là hy sinh chịu
chết hầu hầu muôn người được sống. Thật vậy, người ta khi yêu nhau có
thể làm mọi thứ cho nhau, nhưng ít ai có thể hy sinh và cho đi chính mạng sống
của mình. Đức Giê-su không chỉ cho đi mạng sống mà
còn hiến thân mình làm của ăn nuôi sống người mình yêu. Có thể khẳng định từ cổ
chí kim chưa ai dám và thể hiện tình yêu một cách độc đáo và sáng tạo như thế ngoại
trừ Đức Giê-su.
Kế đến, tình yêu của Đức Giê-su
không những có sáng tạo mà còn được nhiều người chấp nhận và thán phục. Không
chỉ có người Công giáo mà tất cả những ai tin vào Đức Giê-su đều chấp nhận tình
yêu tự hiến của Người. Khi yêu nhau, người ta luôn muốn nên một, là của nhau,
thuộc về nhau cả về thể xác và tinh thần. Nhưng thuộc về nhau như thế nào đây? Cho dù nhiều người
khi yêu có kết
hợp với người mình yêu như thế nào đi nữa thì hai người vẫn là hai nhân vị khác nhau. Đức Giê-su đã biến Mình
làm của ăn, để muôn người được tháp nhận vào thiên
tính của Ba Ngôi Thiên Chúa. Mỗi khi ki-tô
hữu rước
Mình Máu Thánh Chúa là rước lấy chính Chúa, được hòa tan vào tình yêu của Chúa
được nên một với Chúa cả về thể xác lẫn tinh thần.
Tóm lại, qua phần trình bày trên cho thấy Đức Giê-su,
trong đời sống của mình đã thể hiện rõ Người là một nghệ sĩ chân chính. Tư chất
nghệ sĩ của Đức Giê-su thể hiện qua việc giảng dạy, lãnh đạo và cách thức Đức Giê-su
yêu thương con người.
2.3. Chúa Thánh Thần –Nghệ Sĩ của
mọi thời đại
“Thánh
Thần hay “hơi thở” (ruah) là nhân vật đã được nhắc tới trong sách Sáng Thế:
“Thuở mặt đất chưa nên hình nên dạng, tối tăm bao trùm mặt vực thẳm thì Thần
Khí Chúa đã bay là là trên mặt nước”[51]. Có một sự gần gũi đặc biệt giữa hai từ “hơi thơ” hay “thở”
và “cảm hứng”! Thánh Thần là Nhà Nghệ Sĩ mầu nhiệm của vũ trụ. Hướng tới thiên
niên kỷ thứ ba, tôi thầm mong rằng mọi nghệ sĩ sẽ nhận được dồi dào ơn cảm hứng
sáng tạo, vì đó là khởi đầu cho mọi công trình nghệ thuật chân chính.[52] Thật vậy, Ngay từ những trang đầu của Sáng Thế Ký, bóng dáng
của Chúa Thánh Thần đã được nói đến: “Thần
Khí Chúa bay là là trên mặt nước.” Đức tin của Hội thánh đã xác quyết về
hoạt động tạo dựng của Chúa Thánh Thần: “Ngài,
Đấng chúng ta tuyên xưng là Đấng ban sự sống, là thần khí sáng tạo, là nguồn
mạch của mọi sự thiện hảo.”[53] Nếu như ở
trên chúng ta đã chứng minh Chúa Cha và Chúa Con là Nghệ sĩ thì Thánh Thần
Chúa, nói như Đức Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II thì Thánh Thần là “Nhà
Nghệ Sĩ mầu nhiệm của vũ trụ”. Quả thật, “Chúa
Thánh Thần ngự trị, thánh hóa và làm cho các thụ tạo có sinh khí, bởi vì Ngài
là Thiên Chúa, đồng bản thể với Chúa Cha và Chúa Con… vì Ngài là Thiên Chúa nên
Ngài đẹm lại sức mạnh cho mọi loài thọ tạo và giữ gìn chúng trong Chúa Cha và
Chúa Con.”[54]
Chúa Thánh Thần được gọi là Nghệ Sĩ Của Mọi Thời Đại bởi lẽ xuyên suốt
dòng lịch sử luôn có sự xuất hiện của Chúa Thánh Thần. Trước hết, Thần Khí Chúa
xuất hiện vào buổi đầu sáng tạo[55], Ngài chính
là Thần Khí của Lời hứa[56], Thần Khí
xuất hiện trong những cuộc thần hiện
và trong lề luật[57], Thần Khí
xuất hiện trong thời các vua và thời lưu đầy[58], cuối cùng
Thần Khí được ban xuống trên Đấng Mê-si-a và Ngài được ban xuống cho Hội thánh
trong ngày lễ Ngũ tuần[59].
Hiểu
được vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần như một Nhà Nghệ Sĩ Mầu Nhiệm của
vũ trụ, do vậy mà Đức Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phaolô II đã khuyến khích các
nghệ sĩ như sau: “Các nghệ sĩ thân mến,
quý vị đã quá rõ có nhiều sự thúc đẩy, từ trong hay từ ngoài, có thể gây hứng
cho quý vị thi thố tài năng. Nhưng bất cứ sự cảm hứng chân chính nào, cũng đều
cưu mang phần nào “hơi thở” mà “Thánh Thần Sáng Tạo đã từng dùng để đỡ nâng
công trình sáng tạo ngay từ thuở ban đầu”. Thánh Thần Sáng Tạo trông coi các
quy luật mầu nhiệm đang chi phối vũ trụ, sẽ thổi cho tới các bậc kỳ tài trong
nhân loại và đánh thức dậy khả năng sáng tạo của họ. Ngài chạm đến khả năng ấy
bằng cách soi sáng họ từ bên trong, cho họ vừa cảm thấy cái tốt lẫn cái đẹp,
đồng thời đánh thức mọi năng lực của tâm trí lẫn của tâm hồn để chúng có thể
thai nghén một ý tưởng nào đó, rồi phô diễn nó ra thành một tác phẩm nghệ
thuật. Vì thế, không có gì sai khi nói đó là những “giây phút của ơn phước”, dù
chỉ theo nghĩa loại suy, vì lúc ấy con người như cảm nghiệm được Đấng Tuyệt
Đối, vượt lên trên hết mọi sự.[60]
2.4. Nghệ sĩ theo quan điểm Công
đồng Va-ti-ca-nô II
Nếu như nghệ thuật có vai trò quan trọng trong đời sống nói chung và
trong cử hành phụng vụ của Giáo hội nói riêng nghệ sĩ cũng phải được lưu tâm.
Thật vậy, mối
bận tâm của các nghệ sĩ là tìm kiếm, chiêm ngắm và trình bày vẻ đẹp của Thiên
Chúa, qua đó dù muốn hay không muốn họ cũng giúp cho người khác nhận ra vẻ đẹp
của ấy, bởi lẽ vẻ đẹp của vũ trụ thiên nhiên chỉ là phản ánh vẻ đẹp hoàn hảo
của Thiên Chúa. Thế nên
Giáo Hội cũng luôn lo huấn luyện
các nghệ thuật gia. “Những nghệ sĩ, những
nhà sáng tạo tài tình của cái đẹp, sự rung
động tình cảm (pathos) mà Thiên Chúa đã cảm nhận khi nhìn công trình do tay
mình tạo dựng vào thuở khai nguyên vũ trụ.” Bởi đó, Thiên Chúa cho con người
hiện hữu, giao cho con người nhiệm vụ của những nghệ nhân. Chính qua “hoạt động
sáng tạo nghệ thuật” ấy mà hơn bao giờ hết, con người cho thấy mình “giống
Thiên Chúa”.[61]
Để huấn luyện các nghệ sĩ Công giáo, trước hết cần xác định ơn gọi đặc biệt của
các nghệ sĩ. Thật vậy, không phải ai cũng có ơn gọi làm nghệ sĩ bởi “có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí….”[62] Nghệ sĩ được mời gọi phụng sự Thiên Chúa trong lãnh vực nghệ thuật. Chính
họ có khả năng nhìn thấy nghệ thuật làm cho sự phát triển tâm linh của mình vừa
có một chiều kích mới vừa có được một cách diễn tả hết sức đặc biệt. Thông qua
tác phẩm của mình, người nghệ sĩ trò chuyện và trao đổi với người khác.[63]
Về việc đào tạo các nghệ sĩ, trong thư của Thánh Giáo
hoàng Gio-an Phao-lô II nói rất rõ: Trước hết, “các Giám Mục, hoặc phải tự mình hoặc phải nhờ các linh mục đủ khả năng,
thông thạo và yêu thích nghệ thuật, lưu tâm đến các nghệ thuật gia sao cho họ
thấm nhuần tinh thần Nghệ Thuật Thánh và Phụng Vụ Thánh. Ngoài ra cũng khuyến
khích thành lập những trường học hay những Học Viện về Nghệ Thuật Thánh ở những
miền xét ra là nên thành lập để đào tạo các nghệ thuật gia. Riêng đối với tất cả
những nghệ thuật gia, những người sẵn có tài năng muốn phụng sự Thiên Chúa để
làm vinh danh Người trong Giáo Hội, phải luôn luôn nhớ rằng họ làm một việc
thánh, một phần nào họ giống như Thiên Chúa, Ðấng Sáng Tạo, họ sáng tác những
tác phẩm dùng vào việc thờ phượng trong đạo Công Giáo, đồng thời họ cũng cảm
hóa các tín hữu, cho họ thêm lòng đạo đức và huấn luyện giáo lý cho họ nữa.”[64]
Cũng trong thư
gửi các nghệ sĩ Công Giáo, Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II nói thêm: “Công đồng Va-ti-ca-nô II đã đặt nền tảng cho
việc đổi mới mối quan hệ giữa Giáo Hội và văn hoá, kèm theo những hệ lụy trực
tiếp rút ra từ đó cho thế giới nghệ thuật. Đây là một quan hệ trong tình bằng
hữu, diễn ra trong cởi mở và đối thoại. Trong Hiến chế mục vụ “Vui mừng và Hy
vọng”, các nghị phụ Công đồng đã nhấn mạnh tầm “quan trọng rất lớn” của văn
chương và nghệ thuật trong đời sống con người: “Các nghệ sĩ tìm cách thăm dò
bản tính thật của con người, tìm hiểu các vấn đề và kinh nghiệm của con người
khi con người cố gắng hiểu biết mình và hoàn thiện chính mình cùng với thế
giới, tìm ra chỗ đứng của mình trong lịch sử và vũ trụ, mô tả niềm vui, nỗi khổ
và cái được cái chưa của mình, với hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn”.
Dựa
trên căn bản đó, vào cuối Công đồng, các nghị phụ đã có lời chào hỏi và hiệu
triệu đối với các văn nghệ sĩ: “Thế giới chúng ta đang sống rất cần cái đẹp để
không rơi vào thất vọng. Cái đẹp, cũng như sự thật, mang lại niềm vui cho tâm
hồn con người và là hoa trái quý giá có thể chịu được sự sói mòn của thời gian,
nối kết các thế hệ và đưa họ đến với nhau trong cùng một tâm tình cảm phục và
ngưỡng mộ!”. Trong tinh thần kính trọng sâu xa
đối với cái đẹp như thế, hiến chế về Phụng Vụ đã nhắc lại sự thiện cảm của Giáo
Hội đối với nghệ thuật và, cách riêng đối với nghệ thuật thánh, tức là “đỉnh
cao” của nghệ thuật tôn giáo, Công đồng đã không ngần ngại coi các nghệ sĩ ấy
là những người đang thi hành “một thừa tác vụ cao cả” khi các tác phẩm của họ
phản ảnh vẻ đẹp vô biên của Thiên Chúa, giúp nâng cao tâm trí con người lên với
Ngài. Cũng nhờ các nghệ sĩ ấy mà “Thiên Chúa được mặc khải nhiều hơn, Tin Mừng
được trở nên rõ ràng hơn cho tâm trí loài người”. Trong viễn tượng này, không
có gì là lạ khi cha Marie Dominique Chenu cho rằng nhà viết sử thần học kể như
chưa làm xong nhiệm vụ khi không chú ý đủ tới các tác phẩm nghệ thuật, cả nghệ
thuật văn chương lẫn nghệ thuật tạo hình, vì theo cách của mình, chúng “không
chỉ là những công trình thẩm mỹ mà còn là những nguồn thần học thứ thiệt”.[65]
Như vậy,
theo Công đồng Va-ti-ca-nô II, nghệ sĩ và nghệ thuật cũng có vai trò quan trọng
trong đời sống của Giáo hội, đặc biệt là trong cử hành Phụng vu của Giáo hội.
Giáo hội khuyến khích đào tạo những nghệ sĩ Công giáo hầu để họ khá phá, sáng
tạo ra những tác phẩm nghệ thuật góp phần củng cố đức tin của Giáo hội vào
Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo, là Nghệ sĩ của mọi nghệ sĩ.
II. HÌNH ẢNH NGƯỜI LINH MỤC
1. Linh mục là ai?
Có nhiều định nghĩa, quan điểm khác nhau về linh mục. Chẳng hạn như
theo thánh Phao-lô, làm linh mục trước tiên có nghĩa là: Là người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Mọi người phải nhìn linh
mục như người thừa hành của Đức Giê-su và là người quản lý các mầu nhiệm của
Thiên Chúa.[66] Còn theo Tự điển Công
Giáo thì: “Linh mục là cộng tác viên của
Giám mục trong phẩm chức tư tế và tùy thuộc các ngài trong công tác mục vụ.
Linh mục được mời gọi chia sẻ trách nhiệm với Giáo mục về Giáo hội địa phương:
rao giảng Phúc Âm, hướng dẫn các tín hữu, cử hành Phụng vụ, chăm sóc cộng đoàn
giáo xứ, hay một công việc phục vụ Hội Thánh.”[67]
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau để giải thích linh mục là gì, song
thiết nghĩ cũng nên quay trở lại nguồn gốc Kinh thánh và Truyền thống Giáo hội
để xác định lại căn tính của linh mục.
Trước hết, chức tư tế của cộng đoàn Dân Chúa khởi đi từ
Đức Giê-su. Thật vậy, toàn thể Giáo hội thông phần vào việc xức dầu của Đức Giê-su
trong Thánh Thần. Đức Giê-su là Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian để cứu chuộc
nhân loại. Chính Người đã được Chúa Cha xức dầu thánh hiến[68]. Qua
Phép Rửa khi gia nhận Giáo hội “mọi tín hữu
làm thành một giới tư tế thánh thiện và vương giả để nhờ Đức Giê-su họ hiến
dâng lên Thiên Chúa những lễ tế thiêng liêng và tuyên xưng quyền năng của Đấng
đã gọi họ từ chốn tối tăm đến ánh sáng diệu kì.”[69]
Tuy nhiên, Giáo hội cũng cần đến chức tư tế thừa tác để
đảm trách công việc là Đầu như Đức Giê-su là Đầu của Thân thể. Do vậy, trước
khi về trời Người đã ban Thánh Thần và chính Ngài đã thánh hiến các tông đồ để
các ngài tiếp tục thi hành chức vụ tư tế của Đức Giê-su các đặc biệt.[70]
Chính chức tư tế thừa tác này đã làm cho hoạt động đặc biệt của Đầu – là Đức Giê-su
trở nên hữu hình giữa cộng đoàn Dân Chúa. Do Bí tích Truyền chức, được thể hiện
thông qua việc đặt tay và kinh thánh hiến của Giáo mục, phát sinh nơi con người linh mục một mối dây hữu thể đặc thù nối kết
linh mục với Đức Giê-su là Linh Mục Tối Cao và Đấng Chăn Chiên Nhân Lành.[71]
Do vậy, căn tính của linh mục bặt nguồn từ việc thông phần đặc thù vào chức Tư
Tế của Đức Giê-su, làm cho linh mục trở nên cho Giáo hội và trong Giáo hội hình
ảnh chân thực, sống động hình ảnh mang tính Bí tích của Đầu và Chủ chăn. Nhờ việc
thánh hiến, linh mục được trao ban quyền thiêng liêng, thông phần vào quyền
bính mà Đức Giê-su đã sử dụng để hướng dẫn Giáo hội. Như vậy, “do chức thánh và sứ mệnh lãnh nhận từ các
Giám mục, các linh mục được đặc cử để phụng sự Đức Giê-su, là Thầy, là Tư Tế và
là Vua, tham dự vào tác vụ của Người để xây dựng Giáo hội ở trần gian thành Dân
Thiên Chúa, nên Thân Thể Đức Ki-tô và Đền thờ Chúa Thánh Thần.”[72]
Không dừng lại ở việc phụng sự Đức Giê-su mà thôi, linh mục hiện diện còn
“để liên kết các tín hữu thành một thân
thể duy nhất, trong đó không phải các chi thể đều có cùng một chức năng,[73] chính Chúa đã thiết đặt
một số thừa tác viên, những người nhờ chức thánh được trao quyền tế lễ và tha tội
trong cộng đoàn tín hữu và nhân danh Đức Giê-su chính thức thi hành tác vụ linh
mục vì mọi người. Bởi thế, sau khi đã sai các Tông đồ như chính Người đã được
Chúa Cha sai đến, Đức Giê-su, qua các Tông đồ, đã cho những người kế vị các
ngài làm Giám mục cũng được thánh hiến và tham dự vào sứ mệnh của Người, sau
đó, thừa tác vụ của Giáo mục lại được trao ban cho các linh mục ở cấp độ thuộc
quyền, để khi gia nhập hàng linh mục, các ngài trở thành những cộng sự viên của
hành Giám mục cùng nhau chu toàn tốt sứ mệnh tông đồ đã được Đức Giê-su ủy
thác.”[74]
Tóm lại, theo Presbyterorum Ordinis thì: “ Linh mục là người được Chúa chọn từ giữa cộng
đoàn, được thánh hiến theo hình ảnh Đức Giê-su, vị thượng tế vĩnh cửu, nhờ bí
tích Truyền chức thánh, để phụng vụ Dân Chúa.” [75] Các ngài được tuyển chọn giữa loài người, và được đặt làm đại diện cho con
người trong những việc liên quan đến Thiên Chúa, để hiến dâng lễ vật và hy tế đền
tội, các linh mục sống với người khác như với những người anh em.”
2. Linh mục - môn đệ của Đức Giê-su
Lời mời gọi của Đức Giê-su khi xưa với mười hai tông đồ cũng là lời mời
gọi cho tất cả những ai muốn bước theo Người cách triệt để, đặc biệt là các linh
mục: “Không phải anh em đã chọn thầy
nhưng chính thầy đã chọn anh em.”[76]
Đây là vấn đề nòng cốt của Giáo hội, đối với đức tin và tương lai của đức tin
trong thế giới. Ơn gọi chính là hồng ân của Thiên Chúa nhưng cũng là lời đáp lại
tiếng gọi nên thánh tùy thuộc từng hoàn cảnh, sự trưởng thành nội tâm của người
được gọi, tùy thuộc vào họ có biết cộng tác với ơn Chúa hay không. Tin mừng cho
thấy, Đức Giê-su gọi rất nhiều, nhưng kẻ đáp lại lời mời gọi ấy rất ít. Hình ảnh
anh thanh niên giàu có trong Tin mừng đã chứng minh điều đó.[77]
Như các tông đồ, linh mục là người được Thiên Chúa tuyển
chọn giữa lòng dân Chúa nhưng không tách rời khỏi cộng đoàn dân Chúa. Trái lại linh mục là những môn đệ của Đức Giê-su, được
giao cho nhiệm vụ làm chứng cho Người và lo lắng cho các nhu cầu thiêng liêng của
các tín hữu, ban phát các ơn thánh và sống bác ái sâu đậm.[78]
Thât vậy, là môn đệ của Đức Giê-su, đời sống linh mục phải lộ rõ đời sống bác ái.
Công việc mục vụ cho phép các linh mục trở thành chứng nhân cho một cuộc sống
cao cả hơn cuộc sống trần gian này. Đồng thời, cũng giúp các linh mục sống
trong xã hội vẫn hiểu biết rõ ràng các con chiên của mình, đặc biệt là cuộc sống
của anh chị em khó nghèo nhất.
Là môn đệ của Đức Giê-su, linh mục phải họa lại đời mình theo gương sống
của Đức Giê-su, được mời gọi sống các nhân đức, nhân bản như biết sẵn sàng tiếp
đón và lắng nghe mọi người, ước mong hiểu biết, cởi mở và thẳng thắn, chân
thành trong các công tác cứu trợ người nghèo khó và gặp hoạn nạn. Ngoài ra,
linh mục cũng cần biết vun trồng các nhân đức khác như: lòng tốt, tính thật
thà, can đảm, công bằng, lễ phép, dễ thương, kiên nhẫn, sẵn sàng và quảng đại, tha
thứ cho người khác, biết sống các tâm tình xã hội, viếng thăm, gặp gỡ và nối kết
tình thân hữu cũng như có khả năng phục vụ hỷ xả mà không bao giờ cho người
khác biết mình là ân nhân.[79]
3. Linh mục - mục tử của cộng
đoàn[80]
Linh mục cũng là con người bình thường, nhưng do chức tư tế thừa tác,
linh mục trở nên là chủ chăn của đoàn chiên mà Đức Giê-su đã đặt để chăm sóc
đoàn chiên của Người. Do vậy, để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ trược trao phó
linh mục phải biết họa lại đời mình theo gương sống của Người Mục Tử Nhân Lành
là Đức Giê-su. Thánh Phê-rô, với tư cách là người được Đức Giê-su đặt làm đá tảng
của Hội Thánh, trong thư thứ nhất của mình có gợi ý cho các linh mục lời khuyên
hữu ích cho các linh mục là những mục tử của Giáo hội: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã trao phó cho anh em: lo
lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa
muốn, không phải vì ham hợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng
lấy quyền mà thống trị, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên.”[81]
· Trước hết, mục tử của cộng đoàn là người có tinh thần tự nguyện. Chính Đức Giê-su trong
cuộc khổ nạn đã tự trang bị cho mình tinh thần tự nguyện này. Người đã nhiều lần
báo trước cho các môn đệ về cái chết của mình. Người đã kiên quyết lên
Giê-ru-sa-lem để chịu chết. Tinh thần tự nguyện của Đức Giê-su chính là mẫu mực
cho việc phục vụ yêu thương của người mục tử giữa cộng đoàn. Đó chính là việc
đi bước trước đối với nhu cầu của người khác, yêu thương đoàn chiên theo cung
cách của Đức Giê-su. Như vậy, linh mục trong vai trò là mục tử của đoàn chiên
cũng phải biết tự nguyện theo gương Đức Giê-su qua việc “tự tình tự ý nhận lấy nhiệm vụ, không bị bất cứ giới hạn nào về tự do
như áp lực cưỡng chế, câu thúc bên trong cũng như bên ngoài, để có thể hạnh
phúc trong lựa chọn của mình mà tận tâm tận lực cho nhiệm vụ ấy.”[82]
Kế đến, mục tử của cộng đoàn phải là người có trái tim nhiệt thành. Nhiệt thành trước
hết thể hiện ở lòng “yêu nghề”. Thánh Âu-gút-ti-nô đã nói: “hãy yêu đi rồi làm gì thì làm.”[83]
Có thể nói yêu là khởi đầu tốt nhất để dẫn bước vào nghề. Mục tử là nghề lạ,
người ta không thể chọn cho mình, nhưng do
Thiên Chúa thông qua người khác là Bề trên chọn cho, nên tình yêu đối với nghề
trở thành một thành phần quan trọng trong sự nghiệp chăn dắt các linh hồn. Nhiệt
thành với nghề còn thể hiện ở bàn tay lành nghề, sống chết với nghề.[84]
Sau cùng, mục tử của cộng đoàn phải là người có đời sống gương mẫu. Chính Đức Giê-su là
mẫu gương rõ ràng nhất của Người Mục Tử Nhân Lành. Các linh mục muốn có đời sống
gương mẫu cần phải biết họa lại đời mình theo nếp sống của Đức Giê-su. Thật vậy,
đời sống gương mẫu của linh mục khi họa lại đời sống của Đức Giê-su sẽ trở
thành yếu tố quan trọng nhất, hấp dẫn nhất, dễ quan sát nhất, và cũng dễ thuyết
phục nhất làm nên bóng dáng của mục tử đối với đoàn chiên.[85]
Tóm lại, theo thư thứ nhất của Thánh Phê-rô, linh mục
với tư các là mục tử của cộng đoàn Dân Chúa thì cần phải có ba yếu tố sau:
· Tinh thần tự nguyện
· Trái tim nhiệt thành
· Đời sống gương mẫu.
III. LINH MỤC – NGHỆ SĨ CỦA CHÚA
1. Linh mục họa lại đời mình theo
chân dung Đức Giê-su Ki-tô
1.1. Sống cảm thức Ki-tô giáo[86]
Như đã đề cập ở phần đầu, một trong ba phẩm chất làm nên nghệ sĩ tính
là tâm hồn nhạy cảm và cởi mở. Nhạy cảm, cởi mở của nghệ sĩ là sự nhạy cảm không
chỉ với con người mà còn với cả thiên nhiên vũ trụ. Chính nhờ tư chất nhạy cảm
cởi mở này mà nghệ sĩ luôn khám phá ra cái đẹp trong cuộc sống, ngay cả khi cuộc
sống đó toàn đau khổ, tang thương. Do vậy, để một linh mục có thể trở thành nghệ
sĩ của Chúa, điều đầu tiên linh mục ấy cần có trong đức tính của mình đó chính
là một tâm hồn nhạy cảm, cởi mở để có thể sống cảm thức Ki-tô giáo.
Trong thư thứ nhất gửi cho giáo đoàn Thê-sa-lô-ni-ca,
thánh Phao-lô đã viết: “chúng tôi không
ngừ tạ ơn Thiên Chúa, vì khi chúng tôi nói cho anh em nghe lời Thiên Chúa, anh
em đã đón nhận, không phải như lời người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa thao
đúng bản tính của lời ấy. Lời đó tác động nơi anh em là những tín hữu.”[87]
Những lời này của thánh Phao-lô minh họa cho điều mà Công đồng Va-ti-ca-nô II
đã nói đến trong Lumen Gentium số 12 như sau: “Toàn thể tín hữu được Đấng Thánh xức dầu nên không thể sai lầm trong đức
tin, họ biểu lộ thuộc tính đặc biệt này qua cảm thức siêu nhiên về đức tin của
toàn thể Dân Chúa. Khi từ các Giám mục đến những người bé mọn nhất trong các
tín hữu đều đồng thuận đến những điều liên quan đến đức tin và phong hó. Thật vậy,
nhờ cảm thức đức tin do chính Thánh Thần chân lý khơi dậy và nâng đỡ, khi tuân
phục theo sự hướng dẫn của Huấn quyền Giáo hội, Dân Thiên Chúa đón nhận không
phải lời người phàm, nhưng thực sự là Lời của Thiên Chúa.”[88]
Thật vậy, cảm thức đức tin Ki-tô giáo của toàn thể Dân
Chúa là điều quan trọng trong việc giúp cho tín hữu sống đúng với Lời Chúa. Do
vậy, các mục tử, những người hướng dẫn Dân Chúa, phục vụ đức tin của Dân Chúa
phải là những người có cảm thức đức tin sâu xa nhất. Cảm thức đức tin của mục tử
phải được hình thành từ sự kết hợp mật thiết với Đức Giê-su, biến đời mình
thành hình ảnh của Đức Giê-su đang hiện diện cách sống động nơi cộng đoàn Dân
Chúa.
Đức Giê-su khi còn ở trần gian chính người là mẫu
gương cho việc sống cảm thức đức tin. Mặc dù là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng
trong thân phận con người, Đức Giê-su đã phải sống cảm thức đức tin với Chúa
Cha cho đến hơi thở cuối cùng. Kinh thánh nhiều lần cho thầy Đức Giê-su đã phải
luôn cầu nguyện để có thể nhận ra thánh ý Chúa Cha. Chính việc sống cảm thức đức
tin với Chúa Cha mà Đức Giê-su đã làm tỏ lộ nét đẹp của người nghệ sĩ trong cuộc
sống của Người.
· Nét đẹp của
đời sống tấm linh.
Kinh thánh cho thấy Đức Giê-su là con người cầu nguyện,
do vậy, linh mục cũng phải là con người của cầu nguyện. Không những thế, linh mục
còn phải là thầy dạy cầu nguyện. Nét đẹp của đời sống tâm linh thể hiện qua việc
chuyên cần nguyện gẫm, suy niệm Lời Chúa, giảng dạy Lời Chúa, viếng Chúa, chầu
Thánh Thể và dâng Thánh lễ mỗi ngày.[89]
· Nét đẹp của
sự sẻ chia.
Trong bữa ăn sau cùng, Đức Giê-su đã cầm lấy bánh, bẻ ra và trao cho
các môn đệ và nói: “Anh em hãy cầm lấy mà
ăn, này là Mình Thầy.”[90] Họa
lại đời mình theo gương Đức Giê-su, linh mục cũng phải biết bẻ mình ra cho tha
nhân. Thật vậy, nhiều tín hữu đau khổ bởi những biến cố đau thương giữ đời thường.
Họ tìm đến nhờ linh mục cho những lời khuyên, giúp lời cầu nguyện để vượt qua
những khó khăn và thử thách. Linh mục không thể bỏ qua mà phải như Đức Giê-su
thể hiện bằng hành động giúp đỡ từng con chiên[91].
Linh mục không phải là người “được ăn” nhưng phải là người “bị ăn” như Đức Giê-su
đã làm. Nói cách khác, linh mục là người phục vụ chứ không phải để được phục vụ[92].
Chính điều này làm toát lên nét đẹp của sự sẻ chia mà Đức Giê-su đã làm.
· Nét đẹp của
sự tha thứ.
Đức Giê-su đã dạy các môn đệ tha thứ không phải bảy lần
mà bẩy mơi lần bảy[93],
và Người đã tha thứ cho đến hơi thở cuối cùng[94]. Theo
gương Đức Giê-su Giê-su, linh mục phải là con người của sự tha thứ. Nơi nét đẹp
của sự tha thứ, linh mục còn làm toát ra nơi bản thân mình khuôn mặt hiền lành
và phúc hậu của Đức Giê-su. Chính nét đẹp ấy đã giúp nhiều hối nhân lấy lại niềm
tin yêu và cậy trông vào Thiên Chúa. Hình ảnh Đức Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô
II đã tới nhà tù, thăm hỏi và tha thứ cho người thanh niên đã bắn những phát
súng ám sát ngày làm cho cả thế giới phải kính nể. Đó chính là nghĩa cử xuất
phát từ gương lành mà Đức Giê-su đã dạy và đã sống.[95]
Như vậy, sống cảm thức KI-tô giáo nghĩa là họa lại đời
mình theo gương sống của Đức Giê-su. Khi họa lại đời mình theo gương sống của Đức
Giê-su thì linh mục cũng làm toát lên nét đẹp trong đời sống của Người. Chính
những nét đẹp này là dấu chỉ rõ nhất về sự hiện diện của Đức Giê-su trong đời sống
linh mục.
1.2. Hy sinh mạng sống cho con
người
Trong dụ ngôn về Người Mục Tử Nhân Lành, Đức Giê-su đã trình bày việc
làm và hành động của người mục tử nhân lành. Một trong những đặc tính nổi bật
nhất của người mục tử nhân lành mà Đức Giê-su nói đến đó chính là người mục tử
sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để chiên được sống[96].
Thật vậy, trong Cựu Ước, hình ảnh người mục tử thường được áp dụng cho các
vua. Nhưng hình ảnh mục tử và con chiên là một hình ảnh quá quen thuộc
để nói về tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Ngài tuyển chọn, tức Ít-ra-en: Ngài
hướng dẫn, bảo vệ và nuôi dưỡng Dân Ngài. Tuy nhiên, kinh nghiệm của Ít-ra-en
về các nhà lãnh đạo là một kinh nghiệm đáng buồn. Các ngôn sứ đã chỉ trích các
vua bằng lời lẽ nặng nề, vì thay vì nuôi dưỡng con chiên, họ đã bóc lột và thậm
chí giết chiên. Thiên
Chúa luôn ở về phía những người bị áp bức, Ngài hứa rằng chính Ngài sẽ chăm sóc
con chiên, và Ngài sẽ gửi đến cho họ một mục tử chân chính, để điều khiển họ
trong sự công chính và đưa lại bình an[97].
Khi Đức Giê-su tự giới thiệu: “Tôi chính
là Mục Tử nhân lành” thì lời Thiên Chúa hứa đã nên hiện thực, nhưng vượt
quá mọi chờ đợi. Đức Giê-su làm điều mà không
mục tử nào làm, cho dù là mục tử tốt: “hy
sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”. Giữa Người và đoàn chiên, có một sự
hiểu biết hỗ tương chứng tỏ một dây liên kết rất thân tình giữa Đức Giês-u
và đoàn chiên cũng như giữa Đức Giê-su cùng đoàn chiên với Chúa Cha.
Noi theo gương
Đức Giê-su đã làm, linh mục cũng phải dám hy sinh mạng sống cho đoàn chiên.
Không nhất thiết hiểu hy sinh mạng sống ở đây theo nghĩa đen, nhưng thiết nghĩ
linh mục phải biết hy sinh bản thân và quyền lợi của mình để có thể lo cho đoàn
chiên mà Chúa trao gửi.
2. Tâm hồn nghệ sĩ
2.1. Tâm hồn phóng khoáng
Để có một tâm hồn nghệ sĩ, trước hết, linh mục cần có tâm hồn phóng
khoáng. Phóng khoáng ở đây không có nghĩa là thích gì làm đó, sống sao cũng được.
Linh mục sống phóng khoáng theo phong cách của nghệ sĩ phải là người biết sáng
tạo trong mục vụ, trong cử hành Bí tích, trong cử hành Phụng vụ, trong quản trị
giáo xứ…Tuy vậy, sáng tạo do đặc tính phóng khoáng của nghệ sĩ mang lại rất dễ
làm cho linh mục rơi vào tình trạng mất quân bình trong hoạt động, dễ bỏ qua lề
luật, quy định. Một nghệ sĩ thực thụ, với phẩm chất phóng khoáng sẽ giúp người ấy
luôn làm việc một cách nghiêm túc, nắm vững luật lệ, sáng tạo trong lúc thể hiện.
Cũng vậy để tránh nguy cơ mất quân bình, linh mục với tính phóng khoáng của nghệ
sĩ phải biết vươn lên lề luật và khuôn khổ, không để quá lệ thuộc vào luật, mà
hơn thế nữa qua luật linh mục sẽ sáng tạo trong tự do.
2.2. Một con người nhạy cảm và
cởi mở
Kế đến, linh mục cần có tâm hồn nhạy cảm cởi mở của nghệ sĩ. Chính tâm
hồn nhạy cảm cởi mở giúp linh mục dễ dàng sống cảm thức Ki-tô giáo như đã nói
trên. Điều đó sẽ giúp ích rất nhiều
trong việc giảng dạy đức tin cho cộng đoàn. Ngoài ra, một tâm hồn nhạy cảm cởi
mở của nghệ sĩ cũng sẽ giúp linh mục dễ dàng nhận ra cái đẹp trong cuộc sống.
Chính việc dễ nhận ra cái đẹp trong cuộc sống này sẽ giúp linh mục khám phá ra
sự quan phòng của Thiên Chúa. Tâm hồn cởi mở giúp nhận biết sự quan phòng của
Thiên Chúa thông qua vũ trụ, thiên nhiên, con
người và ngay chính bản thân mình. Cũng lắm khi linh mục gặp khó khăn thất bại
trong cuộc sống, hay bị sa lầy bởi tội lỗi đam mê, hoặc khi phải đối diện với
những con người đói khổ, bế tắc…thì chính tâm hồn cởi mở nhạy cảm giúp linh mục
thấy được cái đẹp, cái hay, thấy được sự quan phòng của Thiên Chúa thông qua những
điều tưởng chừng như tệ hại nhất. Từ đó linh mục có thể sống trông cậy, phó
thác vào Chúa, cũng như sẽ có những lời khuyên nhủ hữu ích cho đoàn chiên đang
chăm sóc.
2.3. Luôn thao thức mang lại cái
đẹp cho mọi người
Cuối
cùng, bằng tâm hồn khao khát khám phá cái đẹp và mang cái đẹp đến cho mọi người
thì đó cũng chính là lúc linh mục sống đức mến cách trọn vẹn nhất. Xuất phát từ
việc khám phá ra tình yêu của Chúa Giê-su nơi Bí tích Thánh Thể, linh mục không
ngừng kín múc tình yêu đó, để tình yêu của Chúa tràn đầy trong cuộc sống cá nhân.
Từ đó mang tình yêu của Chúa đến cho mọi người. Một nghệ sĩ có thể mang cái đẹp
cho người khác thì trước hết họ cần phải chiếm hữu cái đẹp đó. Cũng vậy, linh mục
không thể nói về Chúa cho người khác nếu chưa có Chúa trong tâm hồn. Linh mục không
thể nói về một Thiên Chúa đầy lòng thương xót mà lại chưa cảm nghiệm được tình
yêu của Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
2. Linh mục là một nhà làm nghệ
thuật
Ở những phần trên đã cho thầy linh mục là nghệ sĩ của Chúa. Thật vậy, nghệ
sĩ luôn đi đôi, gắn liền với nghệ thuật. Không thể có nghệ thuật nếu không có
nghệ sĩ và ngược lại nghệ sĩ sẽ sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật. Chính những
tác phẩm nghệ thuật này sẽ góp phần làm cho cuộc sống ngày càng tươi đẹp hơn. Một
câu hỏi được đặt ra: Linh mục, nghệ sĩ của Chúa sẽ làm nghệ thuật như thế nào?
Chẳng lẽ linh mục sẽ vẽ những tác phẩm hội họa, hay làm những pho tượng, hoặc
sáng tác âm nhạc…Trên thực tế có rất nhiều linh mục làm nghệ thuật theo kiểu
đó, nghĩa là theo nghĩa đen của thuật ngữ “Nghệ sĩ” và “Nghệ thuật”. Tuy nhiên
bài viết không chỉ nhắm đến những sáng tác nghệ thuật theo nghĩa đen mà nhắm đến
tinh thần nghệ sĩ.
Có thể nói, công việc chính thức của linh mục chính là
cử hành Phụng vụ. Tuy Phụng vụ không phải là tất cả hoạt động của Giáo hội[98],
nhưng Phụng vụ lại là tột đỉnh quy hướng mọi hoạt động của Giáo hội[99]. Vì
“Phụng vụ được xem là việc thực thi chức
năng tư tế của chính Chúa Giê-su Ki-tô, trong đó công cuộc thánh hóa con người
nhờ những dấu chỉ khả giác đồng thời được thực hiện cách hữu hiệu với cách thế
riêng biệt của mỗi dấu chỉ và việc phụng tự công cộng toàn vẹn cũng được thực
thi bởi nhiệm thể Chúa Ki-tô, nghĩa là bởi Đầu cùng với các chi thể.”[100] Chính vì thế,
linh mục, nghệ sĩ của Chúa sẽ làm nghệ thuật trong lãnh vực của mình – nghệ thuật
trong Phụng vụ. Điều này cũng đã được Công đồng nói đến trong các số 122 – 130
của Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh.
Do vậy, ở phần này, xin được trình bày Linh mục là một
nhà làm nghệ thuật qua việc cử hành Phụng vụ Thánh Lễ.
3.1. Quy tụ cái đẹp
Mọi cử hành phụng vụ nói chung và cử hành phụng vụ Thánh Lễ nói riêng
là việc Thiên Chúa tụ họp dân chúng thuộc đủ mọi dân sắc tộc, mọi dân, mọi nước.
Cộng đoàn ki-tô hữu là cộng đoàn mà ở đó không còn ai là Do Thái, Hy lạp, nô lệ,
nam hay nữ, nhưng là nơi để tất cả nên một trong Đức Giê-su Ki-tô. Thật vậy, việc
quy tụ dân Thiên Chúa là hành vi phụng tự chung đầu tiên của dân Chúa. Việc quy
tụ này là quan trọng, bởi vì như toàn thể phụng vụ, tự nó là hành vi bí tích,
chỉ ra những thực tại bên trong và siêu việt.[101]
Chính sự quy tụ này làm toát lên vẻ đẹp của phụng vụ Thánh Lễ.
Trước hết, việc quy tụ khi cử hành phụng vụ Thánh Lễ
là đẹp bởi cộng đoàn tham dự không phải là một đám đông hỗn tạp. Cuộc họp mặt để
cử hành phụng vụ thì khác và phải khác với đám người tụ họp lại xem một trận đấu
thể thao hoặc xem chiếu bóng. Ở sân vận động hoặc ở nhà hát, tất cả đều là một
việc, cùng một lúc, nhưng mỗi người làm theo cá nhân, cho cá nhân mình. Họ họp
mặt nhau, như những khối cẩm thạch trong một cái bao, lạnh lùng vô cảm, không
ai quan tâm đến sự hiện diện của người khác cũng có mặt bên họ. Cộng đoàn ki-tô
hữu phụng vụ không thể so sánh như một đám khán giả thụ động ngồi theo dõi việc
gì đang xảy ra trên cung thánh. [102]
Quả thực, cộng đoàn phụng vụ là hình ảnh thu nhỏ của Giáo Hội mà Đức Giê-su đã
thiết lập. Trong việc cử hành phụng vụ thì Giáo hội, nhân danh Đức Giê-su mời gọi,
quy tụ muôn dân với mục đích duy nhất là cùng nhau cử hành Hy Lễ Tạ Ơn – Hy lễ
mà chính Đức Giê-su đã thiết lập bằng máu của Người. Trong tài liệu “ Chúa Giê-su, tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới”
năm 1979 nói rõ điều đó: “nếu không có
Giáo hội thì không có Thánh lễ tạ ơn. Chính Giáo hội làm thánh lễ tạ ơn, trước
hết bằng cách mời gọi các tín hữu tụ họp quanh Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh
vào thập giá và đã sống lại, Đấng mà họ tuyên xưng là Đức Chúa và là Thiên Chúa
của họ. [103]
Kế đến, trong nhãn giới của một nghệ sĩ, linh mục sẽ
nhận ra hình ảnh muôn dân quy tụ để cử hành Thánh Lễ cũng có thể được so sánh với
việc họa sĩ tập hợp nhiều màu sắc trước khi vẽ tác phẩm. Việc tập hợp này mang
tính nghệ thuật cao. Thật vậy, để một bức tranh được đánh giá là đẹp, sáng tạo,
mang giá trị nghệ thuật cao phải là bức tranh mang nhiều yếu tố khác nhau. Tuy
nhiên, yếu tố màu sắc mang tính quyết định nhất. Bởi màu sắc chẳng những biểu
hiện trạng thái tình cảm của tác giả mà còn truyền tới người xem những ý vị của
ngôn ngữ hội hoạ. Sắc độ là yếu tố quyết định đến chiều sâu trên mặt phẳng hai
chiều của tác phẩm, làm cho người xem cảm nhận được các thể chất và mức độ xa gần
hay tình hình bối cảnh của sự vật - hiện tượng mà tác giả muốn trình bày. Màu sắc
tạo nên những cung bậc phức tạp của tình cảm, là yếu tố tinh tế và huyền bí, có
sức hút lớn, tác động mạnh mẽ vào tâm hồn con người.[104] Mỗi màu sắc được họa sĩ tập hợp lại trong tác phẩm của
mình đều có giá trị riêng của nó. Không có màu sắc xấu, mà chỉ có sự phối hợp
các màu sắc lại với nhau xấu. Điều này có thể so sánh với tính cộng đoàn của
Thánh Lễ. Cũng như mỗi màu có sắc thái riêng, nhưng được họa sĩ hòa sắc, tạo
nên một gam màu chung cho toàn bộ tác phẩm thì việc linh mục quy tụ dân chúng
trước Thánh Lễ mỗi người một vẻ, mang theo cả nỗi lo âu, sở hãi, hy vọng và
khát khao liên quan đến cuộc sống hằng ngày[105]
cũng được mời gọi nên một “gam màu” qua việc dâng tất cả điều đó lên Thiên Chúa
Cha như chất liệu của lễ của mình cùng với hiến lễ của Đức Giê-su. Sau công đồng
Va-ti-ca-nô II chiều kích cộng đoàn trong cử hành phụng vụ Thánh Lễ được nhấn mạnh
nhiều hơn. Giáo Hội hằng bận tâm lo cho
các ki-tô hữu tham dự vào mầu nhiệm đức tin ấy, không như những khách bàng
quan, câm lặng, nhưng là những người thấu đáo mầu nhiệm đó nhờ các nghi lễ và
kinh nguyện: họ tham dự hoạt động thánh một cách ý thức, thành kính và linh động:
họ được đào tạo bởi lời Chúa; được bổ sức nơi bàn tiệc Mình Chúa; họ tạ ơn
Chúa; và trong khi dâng lễ vật tinh tuyền, không chỉ nhờ tay linh mục mà còn
liên kết với ngài, họ tập dâng chính mình; và ngày qua ngày, nhờ Chúa Ki-tô
Trung Gian, họ được tiêu hao trong tình kết liên với Thiên Chúa và với nhau, để
cuối cùng Thiên Chúa trở nên mọi sự trong mọi người.[106]
Như vậy, cái đẹp đầu tiên trong phụng vụ là cái đẹp của
sự quy tụ. Cái đẹp này không phải là cái đẹp đơn lẻ như những màu sắc đơn lẻ,
nhưng là cái đẹp tổng thể liên kết mọi người trong Đức Giê-su. Linh mục phải là
người nhận ra những cái đẹp đơn lẽ của từng con chiên một, rồi biết tìm cách
sao mang những cái đẹp đó quy tụ lại với nhau để cử hành Phụng vụ.
3.2. Liên kết cái đẹp
Chủ thể của vẻ đẹp sâu xa của phụng vụ là chính Chúa Giê-su, phục sinh
và vinh quang trong Chúa Thánh Thần, Đấng bao quát Giáo Hội trong công trình của
Người.[107] Nên chính Đức Giê-su mời
gọi cộng đoàn phụng vụ hiệp nhất với cái đẹp sâu xa này qua việc rước Mình Máu
Người. Thật vậy, cao điểm của Thánh lễ là lời vinh tụng ca: “Chính
nhờ Người, với Người và trong Người, mà mọi danh dự và vinh quang đều qui về Chúa là Cha toàn năng, trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần đến
muôn đời.”[108] Nên việc hiệp lễ là lúc ki-tô hữu được nên một
với Đức Giê-su, từ đó nên một với Chúa Cha, trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh
Thần. Đức Giê-su mời gọi cộng đoàn dân Chúa nên một với Người như hình ảnh cành
nho gắn liền với thân cây nho[109],
Người chính là đầu của chi thể[110],
Người luôn khao khát đoàn chiên của Người hiệp nhất với Người trong Chúa Cha[111]…Việc
đáp lại lời mời gọi nên một với Đức Giê-su của linh mục chủ tế - “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần
gian, phúc cho ai đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa” – đã cho thấy cái đẹp của sự
hiệp nhất trong Thánh lễ.
Cái đẹp của sự hiệp nhất trước
hết được thể hiện qua hành vi bẻ bánh của linh mục chủ tế. Một hành động tuy nhỏ,
và ngày nay dường như ít được chú ý trong Thánh lễ nhưng lại mang nhiều ý nghĩa
cao quý. Một trong những ý nghĩa cao quý của hành động bẻ bánh nói lên sự hy
sinh mạng sống của Đức Giê-su. Hành động
bẻ bánh là điểm nhấn trong bức tranh của tình yêu tự hiến. Bẻ ra là chấp nhận
hy sinh, chấp nhận chết. Qua đó, Đức Giê-su trao ban chính mình Người để những
ai “ăn thịt và máu tôi thì được sống muôn
đời.”[112] Thật vậy, cái đẹp của
hành vi bẻ bánh mà Đức Giê-su đã làm, Người cũng mời gọi cộng đoàn phụng vụ tự
bẻ thân mình cho tha nhân. Không phải là để chết như Người, nhưng là hiến thân
phục vụ như Người đã phục vụ “Con Người đến
để phục vụ chứ không phải được phục vụ.”[113]
Kế đến, cái đẹp của sự hiệp nhất còn thể hiện qua việc
cộng đoàn phụng vụ được trở nên chính cái mà họ lãnh nhận. Thật vậy, “nhờ tham dự vào Thánh Thể, tức nhờ Hiệp Lễ, Giê-su hữu thực sự trở
thành ‘cái mà họ ăn’ như Đức Lê-ô cả viết: “tham dự vào Mình và Máu Chúa Giê-su
có mục đích duy nhất là biến ta thành cái mà ta ăn” (Bài giảng 12 về Cuộc
Thương Khó, 7).[114] Chính khi trở nên “cái mà họ ăn” cộng đoàn phụng vụ
được tháp nhập trọn vẹn vào bản tính Thiên Chúa, được nên một với Đức Giê-su,
trong Chúa Cha và trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần. Cái đẹp ở đây được thể
hiện qua việc một thụ tạo vốn chỉ là cái đẹp khiếm khuyết nay được tháp nhập
vào cái đẹp hoàn bị, cái đẹp trường cửu, cái đẹp cổ xưa và hiện đại.[115]
Khi được nên một với Đức Giê-su qua hiệp lễ thì ki-tô hữu được hiệp thông với Mình và
Máu Chúa Giê-su, hiệp thông với toàn thể cuộc sống
và cái chết của Người. Do đó ki-tô hữu có thể cảm nghiệm toàn
bộ cuộc sống
của Người. Từ đó có thể chia sẻ và làm sống
lại cuộc sống của Đức Giê-su nơi chính cuộc sống của
mình[116] như thánh Phao-lô đã xác tín “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là chính Đức Giê-su
sống trong tôi, đời sống của tôi lúc này trong thân xác, tôi sống nó trong niềm
tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và phó nộp mình vì tôi.”[117]
Cuối cùng cái đẹp của sự hiệp nhất thể hiện qua việc ki-tô hữu được nên
một với Hội thánh và với nhau. Nghi thức hiệp lễ được bắt đầu từ việc cả cộng
đoàn phụng vụ đọc Kinh Lạy Cha.[118]
Điều đó là nổi bật tình huynh đệ trong công đoàn phụng vụ. Thật vậy, lời Kinh Lạy
Cha không chỉ là lời chúc tụng, cầu xin lên Chúa Cha mà Đức Giê-su đã dạy, mà
còn cho thấy tất cả mọi người là anh chị em với nhau, cùng thưa lêm “Abba, cha ơi!”[119] Hình ảnh đức Giê-su
là đầu của Hội thánh[120]
và mỗi người là chi thể được nổi bật khi cộng đoàn cử hành phụng vụ và nhất là
khi cộng đoàn ăn cùng một tấm bánh, uống chung một chén. Thánh Phao-lô đã xác
tín điều này: “Khi ta nâng chén tạ ơn mà
cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Ðức Kitô ư? Và khi ta cùng
bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một
tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người,
chúng ta cũng chỉ là một thân thể.”[121]
Như vậy, hành động hiệp lễ thể hiện nhiều cái đẹp của
sự hiệp nhất. Chính khi lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa là lúc người ki-tô hữu
được hiệp nhất với Đức Giê-su, hiệp nhất với Giáo hội và hiệp nhất với nhau.
Cái đẹp ở sự hiệp nhất này tưởng như muôn màu sắc hòa quyện, vẽ lên một tuyệt
tác bằng bàn tay khéo léo của Thiên Chúa. Chính Ngài là nghệ sĩ tài ba đã khéo
quy tụ muôn màu sắc thụ tạo, để rồi chính Ngài hòa sắc muôn màu thụ tạo đó bằng
chính Mình Máu Con của Ngài. Trong tuyệt tác này, người Nghệ Sĩ, Đấng Sáng Tạo
ấy đã tự hủy chính vẻ đẹp hoàn bị của mình để mặc lấy muôn màu thọ tạo hầu có
thể sáng tạo một bức tranh mới. Bức tranh được vẽ bằng sự hiệp nhất giữa Thiên
Chúa và con người. Linh mục, trong tư cách là nghệ sĩ của Chúa cần có những
hành động cụ thể hơn để có thể liên kết cái đẹp. Dẫu biết rằng chính Đức Giê-su
mới là chủ thể liên kết cái đẹp, nhưng trong vai trò là những tư tế thừa tác, linh mục phải cộng tác đắc lực với Đức Giê-su trong
việc mời gọi, giảng dạy để tín hữu ý thức việc hiệp lễ không còn là hành vi đạo
đức cá nhân nhưng mang chiều kích cánh chung, mọi người đều nên một trong Thiên
Chúa Ba Ngôi.
3.3. Mang lại cái đẹp cho cuộc
sống
Lúc khai mạc Thánh lễ, vị chủ tế chào cộng đoàn bằng lời khẩn cầu Ba
Ngôi Thiên Chúa. Vào lúc kết lễ, trong phép lành thông thường vị chủ tế lại
nhân danh Thiên Chúa mà chúc lành cho cộng đoàn: “Xin Thiên Chúa toàn năng là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần ban
phúc lành cho anh chị em.” Sau đó, linh mục chủ tế hay phó tế tuyên bố giải
tan: “Lễ xong, chúc anh chị em đi bình
an.”[122] Lời giải tán này
chính là lời mời gọi mang cái đẹp cho thế giới.
Thật vậy, nếu như vẻ đẹp của sự quy tụ là vẻ đẹp đầu
tiên trong việc cử hành Thánh lễ thì lời mời gọi mang cái đẹp cho thế giới lại
là lời kết thúc Thánh lễ. Trước hết, muôn người quy tụ lại để chiêm ngưỡng vẻ đẹp
hoàn bị, vĩnh cửu của Thiên Chúa. Kế đến, không những chỉ được mời gọi quy tụ,
mà cộng đoàn phụng vụ còn được đàm đạo với Thiên Chúa qua phụng vụ Lời Chúa. Đỉnh
cao của Thánh lễ chính là mời gọi trở nên vẻ đẹp hoàn bị khi lãnh nhận Mình Máu
Thánh Chúa. Cuối cùng, sau khi đã nên đẹp, nên no thỏa trong Thiên Chúa, cộng
đoàn được mời gọi ra đi mang Chúa – là cội nguồn của cái đẹp đến cho muôn loài
thụ tạo.
Đáp lại lời mời gọi mang cái đẹp cho thế giới thì cũng
là lúc ki-tô hữu thi hành chức vụ Ngôn sứ của Thánh Lễ.
Thật vậy, lời chúc của chủ tế cuối Thánh lễ không phải là lúc kết thúc mọi chuyện
nhưng lời chào ấy là khởi đầu cho nghi thức sai đi. Một cách nào đó, tất cả diễn
tiến trong phụng vụ phải được dẫn đến câu kết của Thánh lễ: “hãy bình an ra đi để yêu thương và phục vụ
Thiên Chúa.” Ki-tô hữu không chỉ đơn giản được mời gọi ra đi, nhưng họ còn
bị thúc bách hối hả ra đi để phục vụ. Sẽ mất đi ý nghĩa của nghi thức này nếu
chỉ nhấn mạnh đến việc ra đi, đúng hơn sứ mạng quan trọng nhất cho mọi ki-tô hữu
sau khi cử hành Thánh lễ là ra đi để yêu thương và phục vụ. Cử hành phụng vụ
Thánh lễ sẽ không mang lại lợi ích gì nếu sai đi không được thi hành.[123] Một phụng vụ mang tính
ngôn sứ giúp tránh khỏi việc tạo nên những vách tường ngăn cách mà ki-tô hữu thường có khuynh hướng dựng lên trong các việc đạo đức
của mình. Nếu ki-tô hữu đóng kín Thiên Chúa trong
chiếc thùng của siêu việt hoặc siêu nhiên, đức tin của ki-tô hữu bị niêm phong tách khỏi cuộc sống hằng ngày.
Như vậy, linh mục trong vai trò là nghệ sĩ phải giảng
dạy cho ki-tô hữu vai trò quan trọng của lời mời gọi mang cái đẹp cho thế giới.
Đó không chỉ đơn thuần là lời chúc ra đi bình an nhưng còn lời mời gọi sai đi
cuối Thánh lễ. Lời mời gọi này là lời mời gọi mang cái đẹp cho thế giới, hầu
đáp cứu những con người đói khát, khát tình yêu, khát cái đẹp, khát chân, thiện.
IV. KẾT LUẬN
Trong “ Sứ điệp gửi toàn thể nhân loại nhân dịp bế mạc công đồng
Va-ti-ca-nô II”, các nghị phụ đã khẳng định: “Thế giới chúng ta đang sống ngày nay đang cần đến cái đẹp để khỏi chìm
đắm và thất vọng. Cái đẹp cũng như chân lý mang lại niềm vui cho tâm hồn con
người, đó chính là những hoa trái quý giá không tàn úa vì thời gian nhưng nối kết
các thế hệ lại và làm cho họ thông cảm nhau khi thán phục nhau.”[124] Do vậy, để có thể mang lại cái đẹp cho
thế giới, Giáo hội cần phải có những chuyên viên về cái đẹp. Linh mục là những
cộng tác viên của Giám mục trong việc rao truyền chân lý và chăn dắt đoàn chiên
của Chúa. Thế giới ngày nay đang khao khát cái đẹp hơn bao giờ hết, do vậy linh
mục phải là người mang lại cái đẹp cho loài người. Cái đẹp ở đây không chỉ là
cái đẹp thụ tạo mà là chính Thiên Chúa, Ngài là căn nguyên của cái đẹp, là cái
đẹp viên mãn, cái đẹp hoàn bị, “Ngài là vẻ
đẹp cổ xưa nhưng rất tân kỳ”.[125] Để có thể mang lại cái đẹp cho nhân loại
thì linh mục phải là nghệ sĩ của Chúa.
Là một nghệ sĩ của Chúa, linh mục sẽ có một tâm hồn nhạy
cảm, cởi mở. Chính điều này sẽ giúp cho linh mục sống cảm thức Ki-tô giáo một
cách tràn đầy. Cảm thức này sẽ giúp linh mục dễ dàng sống tương quan với Thiên
Chúa như Đức Giê-su đã sống. Một khi đã có kinh nghiệm trong tương quan với Thiên
Chúa, linh mục sẽ dễ dàng lôi kéo người khác đến với Chúa.
Là một nghệ sĩ của Chúa, linh mục sẽ có một tâm hồn
phóng khoáng. Chính tâm hồn phóng khoáng mà linh mục sẽ biết chăn dắt đoàn
chiên vượt trên những luật lệ, điều răn để không như các kinh sư và
Pha-ri-siêu. Tâm hồn phóng khoáng sẽ giúp linh mục có được trái tim của Người Mục
Tử Nhân Lành, để rồi giống như Chúa, linh mục dám hy sinh tính mạng vì đàn
chiên của mình
Là một nghệ sĩ của Chúa, linh mục sẽ có khao khát mang
cái đẹp cho thế giới. Cái đẹp ở đây là chính Thiên Chúa. Thật vậy, Thiên Chúa
là cội nguồn của cái đẹp, cái đẹp hoàn bị, cái đẹp viên mãn. Một tâm hồn nghệ
sĩ sẽ giúp cho linh mục dễ dàng khám phá ra cái đẹp hoàn bị của Thiên Chúa
thông qua những cái đẹp thụ tạo, hạn hẹp.
Và cuối cùng, là một nghệ sĩ của Chúa, linh mục ắt hẳn
sẽ tạo ra cho mình một lối sống riêng. Lối sống riêng đó không phải là một lối
sống khác thường, tách biệt khỏi cuộc sống nhưng là lối sống đầy sáng tạo như
chính Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo.
MAPHUC,SSS
[1]
Xc. Vat II, Lumen Gentium, số 12.
[2] Nguyễn
Văn Khôi, Một Cái Nhìn Về Nghệ Thuật
Thánh, ( trích từ Nguyễn Hưng, Nghệ
Thuật Công Giáo, NXB Đồng Nai, 2011), tr. 172.
[3] Kn
13,3.
[4] Lê
Văn Dương, Giáo trình Mỹ Học Đại Cương, (NXB
Giáo Dục Việt Nam, 2009), tr. 195.
[5] Trích Báo Văn
Nghệ, số 32 - 1992, bài Mới và Cũ.
[6]
Xc. Lê Văn Dương, Mỹ Học Đại Cương, (NXB
Giáo Dục Việt Nam, 2009), tr. 136-137.
[7] Viện
Ngôn Ngữ Học, Từ Điển Tiếng Việt, (NXB
Đà Nẵng, 2005), tr. 676.
[8]
Nguyễn Văn Đạm, Từ Điển Tiếng Việt, (NXB
Thông Tin, 1993), tr. 561.
[9] St
27-31.
[11] Xc. St 1, 27-28.
[13] Nguyễn Hưng, Nghệ Thuật Công Giáo, NXB Đồng Nai, 2011, tr.173.
[14]
Xc. Đnl 25, 15.
[15]
Xc. Xh 3, 14.
[16]
Gl 4,4.
[18]
Xc. Ga 13, 1.
[19] Xc. Ratzinger,Cảm Nghiệm Thực Tại - Chiêm Niệm Vẻ Đẹp, (chuyển ngữ Đỗ Văn
Ngân),
http://www.simonhoadalat.com/giaoducgd/giaoduc/41ChiemNiemVeDep.htm,
truy cập 24/4/2015.
[20]
Xc. Lc 2,46.
[21]
Xc. Mc 1, 27.
[22]
Xc. Ga 3, 1-21.
[23]
Xc. Ga 4, 1-42.
[24] Chu Sĩ Chiêu, Thuật
Hùng Biện, Trần Minh Nhật, dg., (NXB Tổng Hợp Đồng Nai), tr.37.
[25]
Xc. Mt 7, 7-10.
[26]
Xc. Ga 10
[27]
Xc. Ga 15.
[28]
Dale Carnegie, Phương Pháp Luyện Tập Kỹ Năng Nói Chuyện Có Hiệu Quả Trước Công Chúng,
Tuyết Minh, dg., (NXB Lao Động Xã Hội), tr.159.
[29]
Xc. Mt 21, 33-45.
[30]
Xc. Lc 8, 4-8.
[31]
Xc. Ga 10, 1-21.
[32]
Mc 1, 27.
[33]
Nguyễn Anh Vũ, Chúa Giê-su Nhà Lãnh Đạo
Khiêm Tốn, (Bài Giảng Chúa Nhật, số tháng 6/2014), tr. 55.
[34]
Xc. Ga 15.
[35]
Xc. Mt 20, 25: Lc 22, 26.
[36]
St 3, 15.
[37] Xc.
Hr 1, 1-2.
[38] Xc.
Pl 2, 6-8.
[39]
GLHTCG, số 605.
[40] Xc.
ĐHY Christoph Schönborn, Đức Ki-tô Chịu Chết Vì Chúng Ta, http://tailieuthanhmau.net/TL-01-ABC/Tim%20Hieu%20Sach%20GLHTCG/Bai%2028.htm, truy cập 13/5/2014.
[41]
GLHTCG, số 613.
[42]
Xc. Ga 15, 13.
[43]
GLHTCG, số 616.
[44]
Xc. 1Cr 15,3.
[45]
Xc. Ga 11, 25.
[47] Xc.
Dt 7,25.
[48]
Xc. Ga 15, 22-23.
[50]
Ga, 3,16.
[51]
St 1, 1-2.
[53]
Xc. GLHTCG, số 291.
[54]
GLHTCG, số 703.
[55]
Xc. St 1, 1-2.
[56]
GLHTCG, số 705 - 706.
[57]
GLHTCG, số 707 - 708.
[58]
GLHTCG, số 709 - 710.
[59]
GLHTCG, số 711 - 716.
[62]
Xc. 1Cr 12, 4-11.
[66]
Tác giả?, Linh Mục, Ngài Là Ai?, (Tủ
Sách Tu Đức, Lưu hành nội bộ), tr.7.
[67] Ủy
Ban Giáo Lý Đức Tin, Từ Điển Công Giáo, (NXB
Tôn Giáo, 2011), tr. 206.
[68]
Xc. Lc 4, 18.
[69]
Xc. 1Pr 2, 5 -9.
[70]
Xc. 2Cr 1, 21-22.
[71]
Xc. Thánh Bộ Giáo Sĩ, Kim Chỉ Nan Cho Thừa
Tác Vụ Và Đời Sống Linh Mục, (1994), tr. 6-7.
[72]
Vat. II, Presbyterorum Ordinis, số 1.
[73]
Xc. Rm 12, 4.
[74]
Vat. II, Presbyterorum Ordinis, số 2.
[75]
Vat. II, Presbyterorum Ordinis, số 3.
[76]
Ga 15,16.
[77]
Xc. Mt 19, 23.
[78]Tác
giả?, Linh Mục, Ngài Là Ai?, (Tủ Sách
Tu Đức, Lưu hành nội bộ), tr.16.
[79]
Xc. Tác giả?, Linh Mục, Ngài Là Ai?, (Tủ
Sách Tu Đức, Lưu hành nội bộ), tr.16-17.
[80]
Vũ Duy Thống, Chân Dung Linh Mục, Tĩnh
Tâm Linh Mục, GP. TP HCM, 2002), tr.45-60.
[81]
Xc. 1Pr 5, 2-3.
[82]
Vũ Duy Thống, Chân Dung Linh Mục, Tĩnh
Tâm Linh Mục, GP. TP HCM, 2002), tr.46.
[83]
Thánh Augustino, Tự Thuật, (NXB Tôn
Giáo, 2007).
[84]
Vũ Duy Thống, Chân Dung Linh Mục, Tĩnh
Tâm Linh Mục, GP. TP HCM, 2002), tr.47.
[85]
Xc. Vũ Duy Thống, Chân Dung Linh Mục, Tĩnh
Tâm Linh Mục, GP. TP HCM, 2002), tr.55.
[86] Ủy
Ban Thần Học Quốc Tế, Thần Học Ngày Nay,
Viễn Cảnh Nguyên Lý và Tiêu Chuẩn, (Bản dịch của Ủy ban Giáo lý Đức Tin,
2012), số 33 - 36, tr. 47 – 50.
[87]
1Tx 2,13.
[88]
Vat. II, Lumen Gentium, số 12.
[89]
Xc. Tâm Thương, Nét Đẹp Của Đời Linh Mục,
Bài Giảng Chúa Nhật, số 11/2013, tr. 55.
[90]
Xc. Lc 26, 26.
[91]
Xc. Ga 10
[92]
Xc. Ga 13, 12-16.
[93]
Xc. Mt 18, 22.
[94]
Xc. Lc 23, 34.
[95]
Xc.Tâm Thương, Nét Đẹp Của Đời Linh Mục, Bài
Giảng Chúa Nhật, số 11/2013, tr. 57.
[96]
Xc. Ga 10, 15.
[97]
Xc. Ed 34; Gr 23,1-6.
[98]
Xc. Vat II, Sacranctum Concilium, số
9.
[99]
Xc. Vat II, Sacranctum Concilium, số
10.
[100] Vat
II, Sacranctum Concilium, số 7.
[101]
Phạm Đình Ái, Cử Hành Hy Lễ Tạ Ơn, (Học
Viên Dòng Thánh Thể, 2012), tr. 5.
[102] Xc.
Trần Đình Long, Thánh Lễ Gõ Nhịp Cho Cuộc
Sống, (Tủ Sách Mục Vụ, 2007), tr. 30-31.
[104]
Bùi Thị Nam, Cảm Thức Về Sắc Độ Trong
Tranh,
[105]
Phạm Đình Ái, Cử Hành Hy Lễ Tạ Ơn, (Học
Viên Dòng Thánh Thể, 2012), tr. 5-6.
[108] Nghi
thức Thánh Lễ.
[109]
Xc. Ga 15.
[110]
Xc Cl 1, 18.
[111]
Xc. Ga 17, 11.
[112]
Xc. Ga 6, 54.
[113]
Xc. Mc 10, 45.
[115]
Thánh Augustino, Tự Thuật, (NXB Tôn
Giáo, 2007), tr. 608.
[117] Xc. Gl 2, 20.
[118] Phạm
Đình Ái, Cao Cả Thay Mầu Nhiệm Cứu Độ, (NXB
Phương Đông, 2014), tr.137.
[119]
Xc. Rm 8, 15.
[120]
Xc. Cl 1, 18.
[121]
1Cr 10, 16-18.
[122]
Phạm Đình Ái, Cao Cả Thay Mầu Nhiệm Cứu Độ,
(NXB Phương Đông, 2014), tr. 188.
[123]Trần
Đình Long, Thánh Lễ Gõ Nhịp Cho Cuộc Sống,
(Học Viện Thánh Thể, 2007), tr. 171-172.
[124]
Nguyễn Hưng, Nghệ Thuật Công Giáo, (NXB
Đồng Nai, 2011), tr. 171.
[125] Thánh
Augustino, Tự Thuật, (NXB Tôn Giáo,
2007), tr. 608.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét