CHIỀU KÍCH MỸ HỌC CỦA BÍ TÍCH THÁNH THỂ

CHIỀU KÍCH MỸ HỌC

NƠI BÍ TÍCH THÁNH THỂ

Mar-ti-nô Au-gus-ti-nô Bùi Văn Hồng Phúc

Nội dung:
I.              Giới thiệu.
II.         Chiều kích Mỹ học trong Bí tích Thánh Thể.
1.   Cái đẹp trong Bí tích Thánh Thể.
1.1.          Cái đẹp của Hy Tế Thập Giá.
1.2.          Cái đẹp thể hiện qua việc Thánh Thể trở nên nguồn linh dược chữa lành, dưỡng nuôi đời sống đức tin người tín hữu.
1.3.          Cái đẹp của Lòng Thương Xót.
1.4.          Cái đẹp trong cách thức thể hiện tình yêu.
2.   Cái cao cả trong Bí tích Thánh Thể.
3.   Bí tích Thánh Thể - nghệ thuật bày tỏ tình yêu
III.  Hướng đến tôn thờ Chúa Giê-su nơi Bí tích Thánh Thể bằng tâm hồn của người nghệ sỹ.
1.   Hành vi tôn thờ
2.   Tư chất của người nghệ sỹ
3.   Hướng đến tôn thờ Chúa Giê-su Thánh Thể bằng tâm hồn của người nghệ sỹ.
IV.  Kết luận

I. Giới thiệu
Nhiều người cứ ngỡ rằng, ở đâu có hòa bình, tự do, hay tiền của vật chất, quyền lực…là ở đó có hạnh phúc. Do vậy, đã có bao con người, bao thế hệ đi tìm những thứ cứ ngỡ là hạnh phúc. Nhưng thực ra, hạnh phúc là một điều gì đó siêu hình, không thể nhìn thấy được. Thiết nghĩ, người có được hạnh phúc là người nhận ra giá trị chân, thiện, mỹ trong cuộc sống. Trải qua thời gian dài của lịch sử nhân loại, đã có nhiều sự thật được khám phá, nhiều sự thiện được tôn vinh và vô vàn cái đẹp được khơi gợi.
Chân, thiện, mỹ thực ra chỉ là một yếu tố, một tổng thể. Người ta thường phân tách chân, thiện, mỹ thành ba lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế, ta không thể phân tách. Bởi ở đâu có chân lý thì ở đó cũng có sự thiện và cái đẹp. Chân, thiện, mỹ luôn tồn tại cùng nhau. Có nhiều điều, nhiều nơi trong cuộc sống ta nghĩ là hội đủ ba yếu tố chân thiện mỹ như: tình yêu, sự chiến thắng… Nhưng trong cái nhìn đức tin của người Ki-tô hữu có một nơi hội tụ chân, thiện, mỹ trọn vẹn nhất. Đó là Tình yêu của Đức Ki-tô nơi Bí tích Thánh Thể. Nơi Bí tích Thánh Thể không chỉ tồn tại chân lý đích thực, sự thánh thiện vẹn toàn mà còn ẩn chứa cái đẹp viên mãn.
Vì còn nhiều giới hạn về kiến thức và thời gian, nên bài viết chỉ xin được bàn đến cái đẹp nơi Bí tích Thánh Thể với đề tài: “ Chiều Kích Mỹ Học Nơi Bí tích Thánh Thể.”

II. Chiều kích Mỹ học trong Bí tích Thánh Thể.
1. Cái đẹp trong Bí tích Thánh Thể.
Nói đến cái đẹp người ta thường hay nhắm đến những hình ảnh cụ thể như: bông hoa đẹp, bức tranh đẹp, cô gái đẹp... đôi khi trừu tượng hơn như: hành động đẹp, chơi đẹp, lối sống đẹp...Tuy nhiên, một tình yêu đẹp thường được quan tâm nhất.
Trong văn học nghệ thuật, điện ảnh có nhiều tình yêu đẹp được xây dựng như: chuyện tình Rô-mê-ô và Ju-li-ét, hay Rose và Jack trong Titanic...
Phần lớn tình yêu đẹp thường chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ hẹp. Có th chỉ là tình cảm của cha mẹ với con cái, tình yêu nam nữ. Có một tình yêu không hạn hẹp, nhỏ bé mà vươn lên tầm thường để trở thành một tình yêu phổ quát, phi thường. Xin được nói đến cái đẹp trong Tình Yêu Tự Hiến Của Đức Giê-su Ki-tô.
Theo Đức Hồng y Joshep Ratzinger: “ Thánh Thể là cung cách ứng xử công cộng, qua đó, Đức Giê-su mời gọi mọi người đến gặp gỡ Thiên Chúa phổ quát, để nhận tương quan máu huyết với Ngài, trở nên một thân thể với Ngài.”[1] Điều đó cho thấy Thánh Thể không là tình yêu nhỏ hẹp thông thường như của con người, cũng không thể hiểu như món quà tình bạn mang tính cá nhân hay sức mạnh của đức tin chủ quan, nhưng phải hiểu Thánh Thể là biểu hiện của tình yêu Thiên Chúa.
Tình yêu nơi Bí tích Thánh Thể là tình yêu đẹp, cao cả thể hiện ở một vài khía cạnh sau:
1.1- Cái đẹp của Hy Tế Thập Giá.
Cái đẹp nơi Bí tích Thánh Thể trước hết là Hy Tế Thập Giá của Đức Ki-tô hiến ban cho con người. Thánh Thể là bằng chứng cao nhất về tình yêu Thiên Chúa ban tặng cho con người, là bảo chứng tình yêu cứu độ được hiến tế trên thập giá. Nơi Bí tích Thánh Thể Chúa Giê-su tiếp tục hiện diện để ban ơn và chuyển cầu cho dân người.[2]
1.2- Cái đẹp thể hiện qua việc Thánh Thể trở nên nguồn linh dược chữa lành, dưỡng nuôi đời sống đức tin người tín hữu.[3]
Thật vậy, mỗi lần ta rước Mình và Máu Thánh Chúa là lúc linh hồn ta được dưỡng nuôi và chữa lành. Chính Mình Máu Chúa trở nên Bánh Hằng Sống dưỡng nuôi linh hồn ta. Khi rước Mình Máu Chúa là ta kết hợp với Người, trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Trong chốc lát ta được mặc lấy bản tính Thiên Chúa. Cùng với Bí tích Hòa Giải, Bí tích Thánh Thể cũng là Bí tích của sự chữa lành. Chính Mình Máu Thánh Chúa chữa lành, tha thứ mọi lỗi phạm mỗi khi ta rước Mình Máu Thánh Chúa với lòng ăn năn thống hối và với tâm hồn đơn sơ, một tình yêu tha thiết, một khát khao nên một với Chúa.


1.3- Cái đẹp của Lòng Thương Xót.
Chúng ta biết rằng, ơn tha thứ của Thiên Chúa khởi đi từ tình yêu của Thiên Chúa Cha. Chính Chúa Giê-su cũng đã mặc khải: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Ngài thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời.”[4] Hy tế Thập Giá thể hiện rõ nhất tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, chính tình yêu đó đã phủ lấp muôn vàn tội lỗi của con người. Cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su nói lên lòng thương xót của Thiên Chúa. Người đón nhận cái chết như hiến lễ dâng lên Thiên Chúa Cha, như của lễ đền tội thay cho nhân loại: “tất cả anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy hiến tế vì anh em,... hãy cầm lấy mà uống này là chén Máu Thầy, Máu Giao Ước mới, giao ước vĩnh cửu, đổ ra vì anh em và mọi người được tha tội.”[5]
1.4- Cái đẹp trong cách thức thể hiện tình yêu.
Có nhiều cách thức thể hiện tình yêu khác nhau chẳng hạn như: tặng một đóa hoa, gởi một bài hát, hay một Thông điệp yêu thương, cũng có thể là một cử chỉ âu yếm, một nụ hôn... Nhìn chung lại, khi yêu nhau, người ta chỉ muốn luôn được ở bên nhau, được là của nhau, được trở nên một. Thế nhưng có ai dám nghĩ như Đức Ki-tô. Thật là một sáng tạo độc đáo trong cách thức thể hiện tình yêu. Chúa đã trở nên của ăn nuôi sống người mình yêu. “Ai ăn thịt và uồng máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.”[6]
Tóm lại, cái đẹp trong Bí tích Thánh Thể được thể hiện qua nhiều khía cạnh khác nhau. Ta có thể liệt kê một vài khía cạnh như sau:
- Cái đẹp của Hy Tế Thập Giá
- Cái đẹp thể hiện qua việc Thánh Thể trở nên nguồn linh dược chữa lành, dưỡng nuôi đời sống đức tin người tín hữu.
- Cái đẹp của Lòng Thương Xót
- Cái đẹp trong cách thức thể hiện tình yêu.
2. Cái cao cả trong Bí tích Thánh Thể.
Một phạm trù khác của mỹ học thường được nói đến sau cái đẹp là cái cao cả. Vậy cái cao cả là gì? Tại sao Bí tích Thánh Thể lại bao hàm cái cao cả?
Triết gia Kant cho rằng cái cao cả chỉ là một quan niệm của lý trí quan niệm về cái vô hạn. Do đó không có chỗ đứng trong bất kì một hình thức cảm tính nào. Ông khẳng định cái cao cả chỉ có ở trong ta, trong những ý nghĩ mà cái cao cả khơi gợi để góp vào quan niệm chung của tự nhiên. Cảm xúc mà cái cao cả khơi gợi ở con người theo ông đó là niềm tự hào. Cái cao cả là cái to lớn hơn tất cả những cái mà ta đem so sánh với nó.
Sở dĩ nói Bí tích Thánh Thể mang tính cao cả bởi tình yêu của Đức Ki-tô nơi Bí tích Thánh Thể là biểu hiện một tình yêu to lớn về tầm vóc – tình yêu phổ quát, phi thường về sức mạnh – hiến tế mạng sống, và phản ảnh tình yêu vô tận, vĩnh cửu – tồn tại muôn đời.
Đứng trước tình yêu nơi Bí tích Thánh Thể ta không khỏi không thán phục, ngưỡng mộ, thậm chí nếu ta có một đức tin vững mạnh vào Chúa Ki-tô ta sẽ cảm thấy sảng khoái, bình an. Từ đó khơi dậy trong ta một sức mạnh tiềm tàng. Sức mạnh đó giúp ta nâng cao ý chí, khát vọng vượt qua những khó khăn thử thách để vươn tới sự thánh thiện là kiết hiệp với Đức Ki-tô nơi Bí tích Thánh Thể.
3. Bí tích Thánh Thể - nghệ thuật bày tỏ tình yêu
Để có thể chứng minh được tình yêu của Đức Ki-tô nơi Bí tích Thánh Thể đạt đến mức nghệ thuật trước hết chúng ta cần hiểu rõ tình yêu là gì và tình yêu đạt đến mức nghệ thuật là tình yêu như thế nào.
- Tình yêu là gì?
Tình yêu là gì? Là câu hỏi mà rất nhiều người muốn biết, muốn trả lời theo quan điểm của mình. Nhưng hầu như vẫn không có câu trả lời thuyết phục. Bởi khi nói về tình yêu thì mỗi người nhìn ở quan điểm và góc độ khác nhau. Những câu giải thích hay định nghĩa về tình yêu chỉ mang tính cá nhân mà không có tính phổ quát, vì điều đó còn lệ thuộc vào cách thức của mỗi người khi yêu.
Theo Từ Điển Bách Khoa Toàn Thư thì: “Tình yêu là một khái niệm đa nghĩa trong cách diễn đạt và cách hiểu của mọi người, nhưng theo nghĩa chung nhất, tình yêu là một trạng thái tình cảm của chủ thể này với chủ thể khác ở mức độ cao hơn sự thích thú và phải nảy sinh ý muốn được gắn kết với chủ thể đó ở một khía cạnh hay một mức độ nhất định.”[7]
Trong văn hóa Hy-lạp thì tình yêu được diễn tả bằng từ ngữ Eros. Eros là một sức bật giúp nâng con người lên từ bình diện khả giác sang bình diện khả tri. Đó là nhu cầu tìm kiếm và sở hữu những gì thiện hảo và hoàn mỹ, là những điều mà con người chưa có được hoặc có rất ít. Eros là một khát vọng, là sự thèm muốn.[8] Bản chất của Eros là một sức mạnh chiếm hữu, muốn đạt tới và sở hữu điều mình còn thiếu.
Theo Kinh Thánh tình yêu lại được dùng với thuật ngữ A-ga-pê. Sức mạnh của Agapê không nằm trong “chiếm hữu”, mà nằm trong cho đi. Agapê là một sức mạnh từ trên xuống tương phản với sức mạnh “từ dưới lên” của Eros. Thiên Chúa là Tình yêu cho đi trọn vẹn, cho đi tất cả: “ Thiên Chúa yêu mến thế gian đến nỗi ban Con một mình cho thế gian”[9] Ở đây vừa có một sự đảo ngược trong quan niệm về Thiên Chúa, và một sự đảo ngược khác trong quan niệm về Tình yêu. Tình yêu Ki-tô giáo không là một sự chiếm đoạt, mà là một hồng ân, là ân sủng con người nhận lãnh từ Thiên Chúa. Trong khi Eros là khát vọng, thì Agapê là hy sinh. Eros càng cao thượng khi đối tượng càng “vĩ đại”. Trên bình diện này Tình yêu đối với Thiên Chúa là Chân Thiện Mỹ “vĩ đại nhất”. Còn Agapê càng cao cả khi đối tượng càng “nhỏ bé” (những con người phận nhỏ, những ai yếu đuối, đau khổ, bệnh tật, bị áp bức…)[10]

- Tình yêu đạt đến mức nghệ thuật là tình yêu phải hội đủ hai yếu tố.
Trước hết là có sự sáng tạo mới và độc đáo, thứ hai là được nhiều người chấp nhận. Nếu xét theo hai yếu tố này thì trên thực tế có rất ít tình yêu thật sự đạt đến mức nghệ thuật. Thường những tình yêu đạt đến mức nghệ thuật chỉ là những tình yêu được sáng tạo ra trong văn học, sân khấu, điện ảnh nhằm mục đích ca ngợi tình yêu.
Có thể nói, nghệ thuật là nơi bày tỏ tình yêu. Nhiều tình yêu đẹp được tìm thấy trong nghệ thuật. Có tình yêu quê hương đất nước, có tình yêu gia đình giữa các thành viên với nhau, có tình yêu đồng loại, tình yêu thiên nhiên vũ trụ...Chủ đề tình yêu chiếm một mảng lớn trong lĩnh vực nghệ thuật nói riêng và trong cuộc sống nói chung. Vì con người luôn khao khát tình yêu và luôn muốn được sống với tình yêu mà mình khao khát. Đôi khi tình yêu cũng đồng nghĩa với hạnh phúc.
Vì yêu, nhiều người có thể làm được nhiều điều tưởng chừng như không thể. Như Hòn Vọng Phu yêu chồng, chờ chồng cho đến khi hóa đá, hay Rô-mê-ô và Ju-li-ét dám uống thuốc tự tử để có thể được ở bên nhau...Khi yêu nhau người ta có thể làm mọi thứ cho nhau để thể hiện tình cảm của mình với người yêu. Ca dao tục ngữ Việt Nam của có câu: “yêu nhau mấy núi cũng leo, mấy sống cũng lội mấy đèo cũng qua.” Hoặc: “yêu nhau cởi áo cho nhau, về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay.” Tình yêu rất đẹp, lãng mạn, tình tứ. Mỗi người có cách bày tỏ tình yêu của mình ra bên ngoài khác nhau.
Nếu đem xét hai điều kiện khiến cho một tình yêu đạt đến mức nghệ thuật thì ta có thể nói tình yêu của Chúa Giê-su nơi Bí tích Thánh Thể là tình yêu đạt đến mức nghệ thuật.
Trước hết tình yêu của Chúa Giê-su nơi Bí tích Thánh Thể có sáng tạo, độc đáo trong cách thức thể hiện tình yêu. Người ta khi yêu nhau có thể làm mọi thứ cho nhau, nhưng ít ai có thể hy sinh và cho đi chính mạng sống của mình. Đức Ki-tô không chỉ cho đi mạng sống mà còn hiến thân mình làm của ăn nuôi sống người mình yêu. Có thể khẳng định từ cổ chí kim chưa ai dám và thể hiện tình yêu một cách độc đáo và sáng tạo như thế ngoại trừ Đức Ki-tô.
Kế đến, tình yêu của Đức Ki-tô không những có sáng tạo mà còn được nhiều người chấp nhận và thán phục. Không chỉ có người Công giáo mà tất cả những ai tin vào Đức Ki-tô đều chấp nhận tình yêu tự hiến của Người. Khi yêu nhau, người ta luôn muốn nên một, là của nhau, thuộc về nhau cả về thể xác và tinh thần. Nhưng thuộc về nhau như thế nào đây? Cho dù chúng ta có kết hợp với người mình yêu như thế nào đi nữa thì hai người vẫn là hai nhân vị khác nhau. Đức Ki-tô đã biến Mình làm của ăn, để ta được tháp nhận vào Thiên Tính của Ba Ngôi Thiên Chúa. Mỗi khi chúng ta rước Mình Máu Thánh Chúa là chúng ta rước lấy chính Chúa, được hòa tan vào tình yêu của Chúa được nên một với Chúa cả về thể xác lẫn tinh thần.

II. Hướng đến tôn thờ Chúa Giê-su nơi Bí tích Thánh Thể bằng tâm hồn của người nghệ sỹ.
1. Hành vi tôn thờ
Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi Ai cập, khỏi nhà nô lệ. Ngoài ta ra không có thần nào khác. Ngươi sẽ không làm bất cứ hình tượng điêu khắc nào, không vật gì giống như những gì ở trên trời cao kia, hoặc trên mạch đất này, hoặc ở trong nước, hoặc ở dưới đáy lòng đất. Người sẽ không phục lạy trước các ảnh tượng đó và sẽ không phục vụ chúng.[11]
“Có lời viết rằng: ‘ngươi sẽ thờ lạy Chúa, Thiên Chúa của ngươi và chỉ phụng sự một mình Ngài mà thôi.’[12]
“Tôn thờ hay thờ lạy là cách biểu lộ những phản ứng phức tạp của con người khi gần Thiên Chúa, vừa bộc phát, vừa ý thức, vừa bó buộc, vừa tự ý, ý thức sắc bén về tình trạng tội lỗi của mình, xấu hổ trong im lặng, kính sợ trong run rẩy, biết ơn hay hân hoan sùng bái với cả con người.”[13]
Thật vậy, con người khi đứng trước vinh quang của Thiên Chúa, như tiên tri Ê-dê-ki-en (Ez 1,28) chẳng hạn, hoặc như Sao-lô khi đứng trước Chúa Giê-su Phục sinh (Cv 9,4) đều ngã xuống đất như tiêu tan đi vậy. Tất cả chúng ta cũng thế, mặc dầu không trực tiếp kinh nghiệm về Thiên Chúa như các thánh, nhưng khi quan sát vũ trụ và nhìn lại bản thân ta có thể nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa. Và để thực hiện nhận biết này, con người thực hiện hành vi thờ lạy trước Đấng tạo dựng nên vũ trụ, muôn loài.
Có nhiều hành vi thờ lạy khác nhau: phục lạy, hôn kính, và mọi cử chỉ của hành vi phụng vu. Nhưng cốt yếu nhất của thờ lạy Thiên Chúa là ba nhân đức đối thần, tức là thể hiện ở tấm lòng đối với Thiên Chúa chứ không chỉ là những gì bên ngoài.
Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo[14] cho biết:
- Đức tin.[15]
Đời sống luân lý của ta bắt nguồn từ nơi niềm tin vào Thiên Chúa đã mặc khải cho chúng ta biết và tình Ngài yêu thương chúng ta. Trong thư của thánh Phao-lô gửi giáo đoàn Rô-ma có nói đến “sự vâng phục của niềm tin” là nghĩa vụ thứ nhất của con người. Bổn phận của ta với Thiên Chúa là tin kính và tỏ lòng yêu mến Ngài.
- Đức cậy[16]
Thiên Chúa đã mặc khải cho con người biết Ngài và Ngài kêu gọi con người, con người không thể tự sức đáp lại tình yêu của Thiên Chúa cách đầy đủ. Con người phải hy vọng Thiên Chúa ban cho mình đủ khả năng yêu mến Ngài và hành động hợp với giới ranh của đức ái. Đức trông cậy là sự tin tưởng chờ đợi sự chúc lành của Thiên Chúa, và được hưởng kiến Ngài.
- Đức mến[17]
Niềm tin vào Thiên Chúa bao hàm tiếng gọi và nghĩa vụ phải đáp lại tình yêu của Chúa bằng một tình yêu chân thành. Điều răn thứ nhất dạy ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và trên hết mọi loài thọ tạo. Yêu mến Ngài, vì Ngài và bởi Ngài mà thôi. “Đạo đức Chúa trời có mười điều răn. Thứ nhất thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự.”[18]
2. Tư chất của người nghệ sỹ
Thuật ngữ nghệ sỹ được sử dụng khá rộng rãi trong đời sống lẫn trong nghiên cứu nghệ thuật. Trong đời sống thuật ngữ nghệ sỹ được dùng để chỉ tính chất, đặc điểm của những người vốn không phải là nghệ sỹ nhưng có một tâm hồn lãng mạn, giàu cảm xúc. Trong nghiên cứu, lý luận, phê bình nghệ thuật thì thuật ngữ nghệ sỹ dùng để gọi những người chuyên sáng tạo hoặc biểu diễn nghệ thuật.
Có nhiều quan điểm khác nhau về hình ảnh và tư chất của người nghệ sỹ, chẳng hạn như:[19]
H. de Balzac(1799-1850) gọi nghệ sỹ là “ người thư ký của thời đại”
V. Hugo (1802-1885) coi nghệ sỹ là “ngọn đuốc soi đường”
E. Zola (1840-1902) nói rằng “ nghệ sỹ là lương tâm của thời đại”
Theo cách hiểu thông thường, nghệ sỹ là người chuyên hoạt động (sáng tác hoặc biểu diễn) trong một bộ môn nghệ thuật. Nghệ sỹ là người sáng tạo ra loại hình nghệ thuật như vẽ, đồ họa, chạm khắc, chụp ảnh, làm mô hình, diễn kịch sân khấu về các ý tưởng và cảm xúc lành mạnh với văn hóa xã hội. Có thể nói, khái niệm nghệ sĩ gắn liền với khái niệm nghệ thuật. Vì vậy khái niệm nghệ sĩ phụ thuộc nhiều vào cách hiểu về nghệ thuật. Một khái niệm gần giống với nghệ sĩ là nghệ nhân. Ở một góc độ khác, người nghệ sỹ là người luôn nhạy cảm, dễ dàng khám phá, sáng tạo ra cái đẹp trong cuộc sống. Cũng có ý kiến cho rằng người nghệ sỹ phải là người có năng lực sáng tác phong phú, hay người nghệ sỹ phải là người có tâm hồn xúc động và nhạy cảm, phải có trí nhớ tốt…
Như vậy, có nhiều quan điểm khác nhau về tư chất của người nghệ sỹ, nhưng ta có thể tóm gọn như sau: “Người nghệ sỹ là người có phẩm chất đặc biệt, có tài năng về nghệ thuật. Tuy nhiên một người giỏi nghệ thuật thì chưa hẳn là một nghệ sỹ thực thụ. Bởi không nhất thiết một người làm nghệ thuật phải có tâm hồn nghệ sỹ và ngược lại.”
Ta có thể đưa ra một vài tư chất đặc trưng của người nghệ sỹ như sau:
- Người nghệ sỹ là người có tâm hồn phóng khoáng
Phóng khoáng ở đây không có nghĩa là thích gì làm đó, sống sao cũng được. Người nghệ sỹ phóng khoáng là người sáng tạo dựa trên nền tảng, khuôn phép, lề luật của bộ môn nghệ thuật mà họ đang theo đuổi. Người nghệ sỹ phóng khoáng là người luôn làm việc một cách nghiêm túc. Chính vì tư cách phóng khoáng này mà người nghệ sỹ đã vươn lên lề luật và khuôn khổ. Họ không bị ràng buộc bởi luật, mà hơn thế nữa qua luật họ sáng tạo trong tự do.
- Người nghệ sỹ là người có tâm hồn nhạy cảm và cởi mở.
Giá trị nghệ thuật không đơn thuần chỉ là kết quả của tài năng mà hơn nữa còn là kết quả của một trái tim luôn thổn thức, thiết tha yêu cuộc sống. Thật vậy, người nghệ sỹ nếu không có cảm xúc thật sự thì sẽ không có sáng tạo nghệ thuật chân chính. Do đó, để có được những tác phẩm nghệ thuật đích thực đòi hỏi người nghệ sỹ phải có tâm hồn nhạy cảm, cởi mở. Nhạy cảm, cởi mở không chỉ với bản thân con người mà còn với cả thiên nhiên vũ trụ. Chính nhờ tư chất nhạy cảm cởi mở này mà người nghệ sỹ luôn khám phá ra cái đẹp trong cuộc sống, ngay cả khi cuộc sống đó toàn đau khổ, tang thương.
- Người nghệ sỹ là người luôn khao khát giới thiệu cái đẹp cho mọi người
Không chỉ dừng lại ở một tâm hồn nhạy cảm cởi mở, dễ dàng khám phá ra cái đẹp, mà hơn thế nữa người nghệ sỹ luôn khao khát, mong mỏi mang cái đẹp đến mọi người. Trong lời diễn từ đọc tại lễ nhận thưởng giải Nô-ben ngày 14/2/1957 nhà văn Albeert Camus (1913-1960) nói rằng: “…đối với tôi, nghệ thuật không phải là lạc thú để hưởng thụ một mình. Nó là phương tiện để cảm xúc một số quần chúng lớn lao nhất bằng những hình ảnh đặc thù về những nỗi đau thương chung. Như vậy, nó buộc người nghệ sỹ không được sống lẻ loi. Nó buộc người nghệ sỹ phải phục tùng sự tầm thường nhất và đại chúng nhất. Và kẻ nào đã chọn cái số kiếp của người nghệ sỹ vì tự cảm thấy mình khác người, kẻ đó sớm biết rằng hắn giống tất cả mọi người. Người nghệ sỹ tự rèn luyện mình trên con đường giao tiếp thường trực giữa hắn với thiên hạ, ở khoảng giữa cái đẹp mà hắn không thể bỏ qua được và cái cộng đồng mà hắn không thể tách rời được.”[20] Thật vậy, người nghệ sỹ không thể tồn tại một mình vì những tác phẩm nghệ thuật phải cần được công chúng công nhận. Hơn nữa, chẳng một người nghệ sỹ nào lại muốn những đứa con tinh thần của mình bị chôn vùi hoặc quên lãng. Họ luôn khao khát giới thiệu đến công chúng.
Tóm lại ta có thể nói tư chất của một nghệ sỹ bao gồm ba yếu tố cơ bản sau:
- Thứ nhất, người nghệ sỹ là người có tâm hồn phóng khoáng.
- Thứ hai, người nghệ sỹ phải là người nhạy cảm, cởi mở.
- Thứ ba, người nghệ sỹ phải là người luôn biết mang cái đẹp đến cho mọi người.
3. Hướng đến tôn thờ Chúa Giê-su Thánh Thể bằng tâm hồn của người nghệ sỹ.
Trong thư gửi cho bà Giu-li-o, thánh Ê-ma có nói: “con hãy đến với Chúa Giê-su Thánh Thể bằng tâm hồn của người nghệ sỹ.”[21] Thật vậy, nếu tình yêu của Chúa Giê-su nơi Bí tích Thánh Thể mang tính nghệ thuật cao thì cũng cần lắm việc tôn thờ Chúa Giê-su Thánh Thể bằng tâm hồn của người nghệ sỹ. Vấn đề cần được làm rõ ở đây là tại sao ta phải tôn thờ Chúa Giê-su Thánh Thể bằng tâm hồn của người nghệ sỹ, và khi tôn thờ như thế sẽ mang lại lợi ích gì?

- Tôn thờ Đức Ki-tô với Đức tin sâu xa.
Trước hết, khi đến với Chúa Giê-su Thánh Thể bằng tâm hồn của người nghệ sỹ ta sẽ dễ dàng vượt lên những giới hạn của giác quan để tôn thờ Chúa bằng đức tin sâu xa. Đối với việc tôn thờ Chúa nơi Bí tích Thánh Thể, ta chỉ biết lấy đức tin bù lại giác quan. Giác quan thì chỉ giới hạn ở những sự vật khả giác. Giác quan chỉ nhận biết Bí tích Thánh Thể là bánh và rượu, đức tin lại cho thấy qua hình ảnh bánh và rượu chính là sự hiện diện của Đức Ki-tô cách đích thực. Điều này sẽ luôn là một thách thức cho những ai có đầu óc suy lý, khoa học. Một người suy lý, khoa học luôn nại đến những lý luận để giải thích mọi vấn đề như: “ Thế nào là thay đổi bản thể bánh và rượu thành bản thể Chúa?” hay “Chúa Giê-su là Thiên Chúa, Ngài hiện diện khắp nơi, thì ngoài Bí tích Thánh Thể ra Ngài còn hiện diện ở nơi nào nữa không?”[22]… và còn rất nhiều câu hỏi tương tự như thế.
   Ở điểm này, với một tâm hồn phóng khoáng của người nghệ sỹ, ta sẽ không dùng lý luận để giải thích sự hiện diện của Chúa Giê-su nơi Bí tích Thánh Thể mà vượt qua lý luận để nhận biết bằng con tim, bằng đức tin và sự phó thác tuyệt đối, từ đó giúp ta dễ dàng đón nhận mầu nhiệm Thánh Thể, nhận ra sự hiện diện đích thực của Chúa và kiết hiệp mật thiết với Người.
- Sống Đức cậy vững vàng.
Kế đến, nếu ta tôn thờ Chúa Giê-su Thánh Thế với tâm hồn nhạy cảm cởi mở của người nghệ sỹ, giúp ta dễ dàng sống đức cậy vững vàng. Nếu với một tâm hồn nhạy cảm cởi mở giúp người nghệ sỹ dễ dàng nhận ra cái đẹp trong cuộc sống thì khi đến với Chúa với tâm hồn đó sẽ giúp ta khám phá ra sự quan phòng của Thiên Chúa. Chính tâm hồn cởi mở giúp ta nhận biết sự quan phòng của Thiên Chúa thông qua vũ trụ, thiên nhiên, con người và ngay chính bản thân ta. Cũng lắm khi ta gặp khó khăn thất bại trong cuộc sống, hay bị sa lầy bởi tội lỗi đam mê, thì chính tâm hồn cởi mở nhạy cảm giúp ta thấy được cái đẹp, cái hay, thấy được sự quan phòng của Thiên Chúa thông qua những điều tưởng chừng như tệ hại nhất. Từ đó ta có thể sống trông cậy, phó thác vào Chúa cho dù luôn phải sống trong đau khổ thất bại.
- Sống Đức mến cách trọn vẹn.
Cuối cùng mỗi khi đến với Chúa Giê-su Thánh Thể bằng tâm hồn khao khát khám phá cái đẹp và mang cái đẹp đến cho mọi người thì đó cũng chính là lúc ta sống đức mến cách trọn vẹn nhất. Xuất phát từ việc khám phá ra tình yêu của Chúa Giê-su nơi Bí tích Thánh Thể, ta không ngừng kín múc tình yêu đó, để tình yêu của Chúa tràn đầy trong ta. Từ đó ta mang tình yêu của Chúa đến cho mọi người. Một người nghệ sỹ có thể mang cái đẹp cho người khác thì trước hết họ cần phải chiếm hữu cái đẹp đó. Cũng vậy, ta không thể nói về Chúa cho người khác nếu ta chưa có Chúa trong tâm hồn. Ta không thể nói về một Thiên Chúa đầy lòng thương xót mà lại chưa cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc đời ta.



IV. Kết luận
Trên thực tế đã có rất nhiều chiều kích của Bí tích Thánh Thể được khơi gợi như: chiều kích hợp nhất, vũ trụ, hy tế, bữa tiệc của Chúa… Tất cả các chiều kích đều có chung một đích điểm đó là làm sáng Danh Chúa và đưa ta đến kết hiệp với Chúa hiện diện nơi Bí tích Thánh Thể. Với đề tài “Chiều kích mỹ học nơi Bí tích Thánh Thể”, người viết chẳng dám mong có đóng góp nào khác hơn ngoài điều khơi gợi một chiều kích mới về Thánh Thể nhằm tạo thêm một lối cầu nguyện mới đi đến sự kết hiệp với Chúa hầu làm cho Danh Chúa được rạng tỏ khắp trần gian.[23]
Chiều Kích Mỹ Học Nơi Bí tích Thánh Thể được khơi gợi từ những quan điểm triết lý về cái đẹp của một vài triết gia tiêu biểu. Nhưng với những tư tưởng đó của các triết gia, thiết nghĩ chỉ là tìm kiếm cái đẹp trên phạm vi lý luận của triết học mà không phải là lý luận từ con tim. Thực tế, cái đẹp không chỉ hiện diện trên lãnh vực nghệ thuật mà còn trải rộng trên nhiều lãnh vực khác trong cuộc sống. Để nhận biết cái đẹp có nhiều cách thức khác nhau. Với các triết gia họ nhận biết cái đẹp bằng “cái đầu”, bằng những lý luận triết học.[24] Với các nghệ sỹ, họ cảm nhận cái đẹp bằng con tim, bằng cảm xúc. Bài viết cho thấy được phần nào bản chất, cũng như giá trị của cái đẹp ở chỗ cái đẹp khơi gợi một thực tại mới ngay chính trong thế giới hiện tại. Cái đẹp được chắt lọc từ thực tại tầm thường để có một cái nhìn siêu việt. Khi tìm kiếm cái đẹp có nghĩa là lúc ta tìm kiếm Thiên Chúa, bởi chỉ nơi Thiên Chúa mới có cái đẹp hoàn bị, viên mãn còn tất cả cái đẹp khác chỉ là phản ảnh về sự hiện diện của Thiên Chúa mà thôi. Như thánh Âu-tinh đã nói: “lạy Chúa, Chúa là cái đẹp cổ xưa và hiện đại, con đã yêu Ngài quá muộn….”[25]
Cho dù có nhiều chiều kích của Bí tích Thánh Thể được khơi gợi, sáng tạo suy tư của những nhà thần học, triết gia đi trước nhưng thiết nghĩ sẽ không có một lối cầu nguyện nào thiết thực và hữu hiệu cho bằng nhận biết Thiên Chúa qua chính mặc khải của Chúa: Thánh kinh và Thánh truyền, Tông huấn, Giáo lý ….Bài viết đã khép lại, thế nhưng những thao thức về việc khơi gợi một lối cầu nguyện mới với Chúa Giê-su nơi Bí tích Thánh Thể vẫn còn đó. Chẳng mong bài viết sẽ có những đóng góp to lớn nhưng đó là tất cả những thao thức mà người viết có được mỗi khi chiêm ngắm Chúa Giê-su Thánh Thể muốn chia sẻ cho mọi người mà thôi./.

MAPHUC,SSS





[1] Joshep Ratzinger , God Is Near Us, bản Việt ngữ Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Nguyễn Luật Khoa dịch, NXB Đông phương, tr. 73.
[2] Xc. Dt 7,25.
[3] Joshep Ratzinger , Sđd, tr. 51.
[4] Ga 3,6.
[5] Xc. Cr 11, 23-25.
[6] Ga 6,25.
[8] SỰ TƯƠNG PHẢN VÀ ĐỒNG QUY  GIỮA EROS VÀ AGAPÊ, TRONG THÔNG ĐIỆP THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU, http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThongDiep/TuongPhanDongQuiDeusCaritas.htm, truy câp 2/4/2013
[9] Ga, 3,16
[10] SỰ TƯƠNG PHẢN VÀ ĐỒNG QUY  GIỮA EROS VÀ AGAPÊ, TRONG THÔNG ĐIỆP THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU, http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThongDiep/TuongPhanDongQuiDeusCaritas.htm, truy câp 2/4/2013
[11] Xh 20,2-5.
[12] Mt 4,10.
[13] Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh, tr. 144.
[14] GLHTCG,số  2068
[15] GLHTCG,số  2087
[16] GLHTCG,số  2090
[17] GLHTCG,số  2093
[18] Kinh Mười Điều Răn.
[19] Lê Văn Dương, Giáo trình Mỹ Học Đại Cương,NXB Giáo Dục Việt Nam, 2009, tr. 195.
[20] Trích Báo Văn Nghệ, số 32 - 1992, bài Mới và Cũ.

[21] Thư Thánh Eymard gửi bà Giu-li-o
[22] LUDWIG OTT , Trong Bí Tích Thánh Thể, Mình và Máu Đức Ki-tô Hiện Diện Thực Sự và Bản Thể, http://catechesis.net/news/THAN-HOC-61/TRONG-BI-TICH-THANH-THE-MINH-VA-MAU-DUC-KITO-HIEN-DIEN-THAT-SU-CU-THE-VA-BAN-THE-De-fide-771/, truy cập 2/4/2013

[23] X. Luật Sống Dòng Thánh Thể, số 1
[24] X. Lê Văn Dương, Giáo trình Mỹ Học Đại Cương, NXB Giáo Dục Việt Nam, 2009, tr. 5- 17
[25] Augustin, Tự Thuật, NXB Tôn Giáo, 2007, tr. 608.
Share:

0 nhận xét:

Đăng nhận xét